Không rõ sông có từ lúc nào? Nếu biết, người Lý Hoà
hàng năm đã tổ chức sinh nhật cho sông thật hoành tráng. Sông nổi danh khi được ghi vào sử sách, năm 1306 vua Trần Anh Tông (1293 -
1314) đưa đội thủy quân thiện chiến vào đồn trú tại cửa sông Dĩ Lý (tên sông LH
lúc bấy giờ) đánh tan tác quân Chiêm Thành, xác lập bờ cõi nước Đại Việt.
Sông
chảy theo dòng chảy lịch sử của quê hương, khi làng mang tên Dĩ Lý sông có tên
Dĩ Lý, làng có tên Lý Ninh rồi Thuận Cô, sông mang tên Lý Ninh, Thuận Cô, và từ
giữa thế kỷ 18 làng có tên Lý Hoà và sông cũng mang tên ấy cho đến ngày nay.
Thời
xa xưa, sông Lý Hoà còn có tên gọi là Rào Cày. Sách Địa lý Lịch sử Quảng Bình
do cụ Lương Duy Tâm sưu tầm và biên soạn được Bảo tàng tổng hợp QB xuất bản năm
1998 có ghi "sông Lý Hoà, sông này còn gọi là Rào Cày". Tôi đem câu chuyện
này thưa với cụ Nguyễn Duy Ánh, nhà sưu tầm và nghiên cứu lịch sử, văn hoá dân
gian của làng, không cần nghĩ ngợi, cụ khảng định "đúng". Ngẫu hứng,
cụ đọc cho tôi nghe mấy câu thơ mà cụ quên tác giả:
"Năm xưa ai đã đặt tên sông Rào Cày
Cho hôm nay ta gọi là sông Lý,
Sông vẫn chảy mang bao lời thủ thỉ,
Cánh cò trắng chao nghiêng vương câu hát à ơi !".
Không
dũng mãnh như sông Gianh, cũng chẳng mộng mơ như sông Nhật Lệ, nhưng sông Lý
Hoà có vẻ đẹp riêng, bốn mùa yên ả, lặng lờ trôi xuôi ra biển cả. Sáng sớm trời
thu trong xanh, núi Lệ Đệ nghiêng mình soi bóng xuống dòng sông, nên thơ và hữu
tình. Những làng quê ven sông bao đời nay tuy nhiều gian khó nhưng vẫn yên
bình. Người Hiền Sơn cuộc sống lay lắt sớm khuya theo con tôm còn tép, thôn Mai
Hồng ngày ngày chát chiu tiếng búa đe, dân Thuận Phú nhọc nhằn theo củ khoai hạt
lúa, xóm Đồng cao cần mẩn trên những vạt cải luống hoa. Ấy vậy mà cứ thương
nhau, đùm bọc nhau qua bao năm tháng, trọn nghĩa vẹn tình. Một tiếng gà gáy giữa
trưa hè ở xóm Hiền Sơn làm cho người Đồng Cao thổn thức, một tiếng gọi đò bên
kia thôn Quy Đức trong đêm vắng cũng làm cho người Lý Hoà nao lòng.
Nhà
thơ Xuân Hoàng viết về sông Lý Hoà:
"...Chào sông Lý từ Ba Rền đổ xuống
Qua những làng quen Hỹ Duyệt, Đồng Cao,
Muối mặn Hiền Sơn năm xưa nuôi Cách mạng
Đêm diêm trường lấp lánh những vì sao..."
(Những con sông Quảng Bình)
Thực ra, sông Lý Hoà là một con sông cụt nguồn cội không rõ nét, sông được tạo
nên bởi gần trăm con suối, khe, ao, hồ từ phía tây bắc đổ về, hình dáng của
sông rõ nét nhất bắt đầu từ làng Vạn Hạc về hạ lưu.
Trước
đây vùng Hiền Sơn có mấy chục héc ta đất ruộng nhiễm mặn nên sử dụng vào việc
làm muối. Thời ấy, người Lý Hoà biết làm muối và HTX Diêm Lý ra đời từ ngày ấy
xã viên phần đông là phụ nữ. Trời mùa Hạ nắng như đổ lửa, giọt mồ hôi lăn tròn
trên đôi má ửng hồng rơi xuống ruộng làm nên những hạt muối lấp lánh mặn mòi.
Ai đã một lần đến nơi đây ra về không quên mang theo câu ca đằm thắm chân chất
như tấm lòng của những cô gái tuổi mười tám đôi mươi ngày đêm gắn bó với đồng
muối:
Ai về đồng muối Hiền Sơn
Sông xanh, đồng trắng, lòng son em chờ.
Vào
những năm đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ trước, khi cuộc chiến tranh phá hoại
của Mỹ tạm ngưng, tỉnh Quảng Bình chủ trương khai thông một con sông đào nối liền
sông Son với sông Lý Hoà nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp , giao thông vận tải
đường thủy. Công trình đã được triển khai. Chiến tranh phá hoại của Mỹ trở lại
và công trình tạm hoản cho đến ngày nay. Từ Khương Hà, Hà Môn, Sơn Lộc những hố
đào dấu tích của sông đào ngày ấy đang hiện hữu. Nếu như...không có chiến
tranh, giờ đây một con sông mới uốn mình qua bao làng quê từ Phong Nha về Lý
Hoà có biết bao đổi thay kỳ diệu.
Trở
lại với sông quê, nhớ thương một thời những làng quê đôi bờ sông Lý nghèo khó
nhưng vẫn gắn bó thủy chung, nhà thơ Anh Ngọc bồi hồi nhớ về cửa sông với nỗi
nhớ khắc khoải xa xăm, nhắn gửi đời sau, rằng, hãy biết ơn các thế hệ cha anh,
rằng dẫu phía trước còn nhiều gian khó nhưng hãy vững lòng tin để đón bao điều
tốt đẹp đang đợi chờ.
"...Mai tôi về nhớ cửa biển Thuận Cô,
Phú, Hải, Đức, Đồng hiền hoà sóng vỗ,
Nơi cửa sông còn bao điều chờ đợi,
Thuyền đi xa xin đừng vỗ sóng xô bờ..."
Người
Lý Hoà yêu sông như yêu mình vậy, sáng sớm đã thấy bóng hình ta in xuống sông
lung linh huyền ảo. Thương lắm những hàng dừa xoả tóc nghiêng nghiêng bên bờ
sông, những hàng bần hiên ngang vững chải che chắn cho làng quê khi gió bão
tràn về. Nhớ nhiều những trưa hè oi ả cùng lũ bạn ngụp lặn giữa dòng trong, những
đêm cùng cha buộc chặt cửa nhà chèo thuyền đi tránh lũ. Và nhớ thương đến cồn
cào tiếng hè tiếng hụi vang vọng cả một vùng sông nước khi Tết đến Xuân về.
Sáng
Xuân nay đứng trên kè sông dạt dào bao kỷ niệm với bao ký ức hiện về, cảm xúc
thật nhiều về một dòng sông, bâng khuâng, xốn xang, chơi vơi, khe khẻ cất lên câu
hát đằm thắm yêu thương về một dòng sông ngàn đời nay vẫn chảy ra biển cả
Quá nửa đời phiêu dạt
Con lại về úp mặt vào sông quê.
Ơi con sông dạt dào như lòng Mẹ
Chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn
...
Một dòng xanh trong chảy mãi...tới...vô cùng...
Hoàng Duy Tịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét