Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam
có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,…
Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Cho
nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần
nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…
Vì
vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được
các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những
nhân vật được thờ cúng trong đó.
Chùa là gì?
Chùa
là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành
và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay
người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành
các nghi lễ Phật giáo.
Ở
một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.
Đình là gì?
Đình
là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân
làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư
dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Thành
hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một
nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng,
vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập
nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
Đền là gì?
Đền
là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân
vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền
thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay
công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Các
đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền
Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền
Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền
thuyết dân gian.
Miếu là gì?
Miếu
là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ
hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu –
tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví
dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ
thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu
thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu
thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những
nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân
sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần),
ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về
đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Miếu
nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)
Điện thờ là gì?
Điện
là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy
Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ.
Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông
thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi
tiếng khác.
Điện
có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám,
tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ
hoa, vàng mã,…
Phủ là gì?
Phủ
là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một
số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh
Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm
vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của
sơn môn đạo Phật).
Ngôi
phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có
niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Quán là gì?
Quán
là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở
Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần
thánh.
Sang
tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một
bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự
phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.
Đó
là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân),
Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh
Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ,
Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc
Hoàng).
Có
thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh
Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao
gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán
(nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa
Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).
Am là gì?
Hiện
được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả
như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi
kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường,
Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với
người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu
– Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế
kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ
thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
Nghè là gì?
Một
hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ
chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở
làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè
cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở
tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu
thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua
Đinh.
Hiện
ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét