Trên Quốc lộ 1, từ Bắc vào Nam, qua khỏi cầu
sông Gianh, phía bên phải có dãy núi Lệ Đệ không cao lắm nhưng "chập chùng
hình tựa hổ ngồi" (Ô Châu cận lục). Dãy Lệ Đệ (còn gọi là Đệ Thê) tuy núi
không cao nhưng nhiều ngọn gài nhau lô xô chạy ra biển. Những tảng núi đá cuối
cùng dừng lại bên chân sóng trong vịnh Hà Não (nay gọi là Đá Nhảy).
Dãy núi Núi Lệ Đệ ở khu danh thắng là một di tích lịch
sử gắn với nhiều truyền thuyết. Chuyện kể rằng, xưa kia khi đánh chiếm được Nam
Chiếu, được vua Đường cử làm Tiết độ sứ quận Giao Châu (nước Việt xưa) Cao Biền
đã cưỡi diều bay đến nhiều nơi để yểm bùa những vùng đất có sinh khí. Vừa yểm
bùa, Cao Biền vừa thu vét vàng bạc, sản vật quý ở các địa phương gửi về thượng
quốc. Vì vậy, diều Cao Biền đi đến đâu nhân dân trong vùng căm ghét thường đuổi
đánh.
Lần đó, bay từ Bắc vào Nam, Cao Biền đã thu được nhiều
vàng bạc châu báu. Qua dãy Hoành Sơn, địa đầu vùng đất Nhật Nam, vàng bạc, châu
báu thu vén đã nặng, Cao Biền muốn hạ cánh cất giấu số vàng bạc đã cướp được
nhưng núi non hiểm trở lại bị dân các làng bắn tên nỏ tới tấp làm cho y không
thể nào đáp xuống được. Vượt qua dòng Linh Giang, ở phía hạ nguồn, Cao Biền thấy
trước mắt là một vùng núi điệp trùng, tuy không cao và hiểm trở nhưng nhiều
suối khe rừng rậm có thể cất giấu được số vàng bạc châu báu.
Đó là vùng núi Lệ Đệ với những dãy núi giăng dày
thành dãy lan ra tận biển. Cánh diều Cao Biền hạ xuống cất giấu số của cải cướp
được vào trong dãy núi hiểm trở. Theo truyền thuyết dân gian kể lại, Cao Biền đựng
vàng bạc, châu báu trong những cái hũ bằng sứ, rồi phù phép đẩy sâu vào lòng
núi lấy đá lấp kín lại.
Lại có truyền thuyết kể rằng, xưa kia, nơi đây rừng
núi rậm rạp, cây cối nhiều tầng nhiều lớp. Trong rừng có nhiều muông thú, nhiều
khe suối uốn lượn lọc qua những cồn cát trong vắt rồi hòa vào biển cả.
Trong cảnh sơn thủy hữu tình, hàng năm các nàng tiên trên trời thường xuống
đây quần tụ. Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069) vua Lý Thánh Tông dẫn quân chinh chiến
phương Nam đến vịnh Hà Não trời quang, mây tạnh bỗng có đám mây lành bao phủ
thuyền ngự.
Nhìn lên đỉnh Lệ Đệ, thấy có nhiều tiên nữ từ thượng
giới bay về cõi trần hướng ra biển Đông, vui đùa múa hát. Biết có điềm lành,
vua vội lập đàn khấn vái. Sau khi đại thắng trở về nhớ lại chuyện cũ bèn
cho lập chùa Hang dưới chân núi Đệ Thê để nhớ ngày Ma Cô tiên giáng, Thuyền
ngự quần tụ mây lành (Theo Dự Địa chí ước biên của Cao Xuân Dục). Chùa Hang nằm
trong động núi có tên là động cửa Cửa Chùa. Tương truyền trong chùa có một bức
tượng Phật Quan Âm bằng vàng do vua Lý Thánh Tông cung tiến. Trước Cách mạng
1945 Chùa Hang được giao cho xã Bồ Khê (Thanh Trạch) chăm lo việc cúng tế. Sau
này do bom đạn chiến tranh Chùa Hang trở thành phế tích và ngày nay chỉ còn lại
trong truyền thuyết.
Trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh nơi đây còn lưu
truyền một câu chuyện tình bi ai của nàng công chúa Ngọc Hoa và một viên tướng
chúa Nguyễn. Viên tướng được chúa Nguyễn phái đi sứ ở kinh thành Thăng Long, chẳng
may bị chúa Trịnh bắt giữ, mãi không thấy trở lại. Ngọc Hoa lo lắng thấp thỏm
chờ đợi người thương yêu đến mỏi mòn. Nàng khăn gói lên đường, ra tận bờ sông
Gianh tìm kiếm.
Chờ đợi, ngóng trông, hy vọng Ngọc Hoa xin vào một
ngôi chùa quy y cửa Phật. Mặc dù đã rũ áo phong trần, nương nhờ Phật pháp,
nhưng vẫn thương nhớ người yêu, mong được tái ngộ. Ngày ngày, công chúa Ngọc
Hoa lên sườn núi Đá Mài trong dãy Lệ Đệ ngóng về phương Bắc gửi theo gió nỗi
lòng cô đơn, buồn tủi. Nước mắt nàng chảy thành Suối Ngọc dưới chân núi Đá Mài
không bao giờ cạn như mối tình chung thủy sắt son sống mãi cùng năm tháng.
Không chỉ là truyền thuyết, vùng đất Lý Hòa còn là
"dư khí của núi Lệ Đệ rủ xuống thành một bãi cát bằng, nổi cao mở rộng,
dân cư ở ngang bãi trông về hướng Nam, duôi bãi từ bên tả ôm lấy, sông Thuận Cô
từ bên hữu chảy lại làm tiền đường, một dải cồn cát Thuận Cô làm án cho nên
nhân dân thịnh vượng đến hơn nghìn người" (Phủ biên tạp lục). Lịch sử hơn
300 năm khai canh lập làng của người dân Lý Hòa luôn gắn liền với nghề đánh cá
biển và buôn bán.
Theo Lê Quý Đôn , dân Lý Hòa thời các chúa Nguyễn đã
có "tục quen mua bán, bình thời vào Gia Định đóng thuyền nan lớn đến trăm
chiếc, mỗi chiếc đến hơn nghìn quan, đem về bán lại". Không chỉ có vậy, Lý
Hòa là làng văn hiến nhiều người đỗ đạt, làm quan.
Đặc biệt có gia đình ông cha, con cháu đều đỗ đại
khoa. Tiến sĩ Nguyễn Duy Cần (sau đổi tên là Huân) trúng cử nhân khoa Tân
Sửu (1841), Ân khoa năm Nhâm Dần (1842) được sắc ban Tiến sĩ, phong hàm
Thị giảng học sĩ, giữ chức Giáo tập học đường phủ Tôn Nhân là thân phụ của cử
nhân Nguyễn Duy Miễn. Phó bảng Nguyễn Duy Thắng, cháu nội Tiến sĩ Nguyễn Duy Cần,
con trai Cử nhân Nguyễn Duy Miễn trúng cử khoa Mậu Tuất (1898) giữ chức Chưởng ấn
ở kinh kỳ. Tiến sĩ Nguyễn Duy Tích, em trai Nguyễn Duy Thắng trúng Cử nhân khoa
Canh Tý (1900), khoa Tân Sửu (1901) sắc ban Tiến sĩ, giữ chức Tham tri bộ Binh.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Phiên, em trai Nguyễn Duy Thắng, Nguyễn Duy Tích trúng Cử
nhân khoa Quý Mão (1903), khoa Đinh Mùi (1907) sắc ban Tiến sĩ giữ chức Tá lý bộ
Học. Phó bảng Nguyễn Duy Thiệu em trai Nguyễn Duy Thắng, Nguyễn Duy Tích, Nguyễn
Duy Phiên, trúng cử khoa Canh Tuất (1910) được phong hàm Thừa chỉ.
Đến với Lý Hòa hôm nay không chỉ đến với một Danh thắng
Quốc gia - non xanh biển biếc mà còn đến với một vùng đất năng động, ngày một
phát triển trong quá trình đổi mới vì quê hương giàu đẹp.
Phan Viết Dũng
Nguồn: " Báo Quảng Bình"
>>> Xem thêm video, link: https://youtu.be/-GJBSIbKO_8
Link Video: https://youtu.be/ocDti-JauRU