Mở
đầu
Bố Trach một huyện của
tỉnh Quảng Bình, ở vào tọa độ 17°14’39” đến 17°43’48” vĩ độ Bắc, 105°58’3” đến 106°35’573” kinh độ Đông. Huyện Bố Trạch nằm vào nơi
hẹp nhất của đất nước, tính từ núi Đầu Mâu đến bờ biển Đông chỉ có 40,5 km.
Phía bắc giáp sông Gianh
bên kia sông là huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, phía nam giáp thành phố
Đồng Hới và huyện Quảng Ninh, phía đông giáp biển Đông với bờ biển dài 24 km,
phía tây giáp tỉnh Savanakhẹt nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với đường biên
giới dài 54 km
Bố Trạch có tổng diện tích tự nhiên 212.417,6 ha, do ở vào một địa
thế sau lưng là dãy Trường Sơn hùng vĩ, trước mặt là biển cả bao la vì vậy địa
hình Bố Trạch hẹp dần từ Bắc vào Nam, thấp dần từ tây sang đông, nơi cao
nhất là núi Ba Rền 1.137m, nơi thấp nhất là vùng đồng trũng giữa các xã Hoàn
Trạch, Vạn Trạch, Phú Trạch, Đồng Trạch dưới âm 5o so với mặt nước biển. Với
đặc điểm địa tầng, địa mạo đó chia Bố Trạch thành 4 dạng địa hình liên
quan đến nhau trong một hình thái địa lý hoàn chỉnh. Vùng rừng núi và núi cao
đá vôi chiếm ½ diện tích tự nhiên chạy dài từ Tây Bắc đến Tây Nam nằm trong hệ
thống dãy Trường Sơn, cắt ngang địa hình có dãy núi Bung một nhánh của Trường
Sơn đâm ra tận biển mà điểm cuối cùng của nó là đèo Lý Hòa. Địa hình bị phân
cắt mạnh, độ dốc lớn, quá trình xâm thực và rữa trôi mạnh. Ở đây có dãy núi đá
vôi Phong nha – Kẻ Bàng lớn nhất Đông Dương với những vách núi đá dựng đứng,
chồng xếp lên nhau tầng tầng, lớp lớp kéo dài từ Cà Roong thuộc huyện Bố Trạch
đến đèo Mụ Dạ của huyện Minh Hóa, chiếm trọn toàn bộ diện tích tự nhiên của hai
xã miền núi rẻo cao Thượng Trạch và Tân Trạch, một phần điện tích phía tây của
các xã Xuân Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch. Tại đây có một hệ thống hang động lớn
như động Phong Nha, động Tên Sơn, động Thiên Đường, động Sơ Dooong, hang Én,
hang Tối...và những đỉnh núi cao như Phicophi cao 2017m, Cà Roong cao1540, hòn ông Tượng, cao
điểm 75 đèo Lý Hòa không chỉ có giá trị về địa tầng, địa mạo, cảnh quan du lịch
hang động mà còn có giá trị lớn về chiến lược quân sự. Giữa những dãy núi đá vôi tạo thành những “ vùng lỏm”,
những thung lủng như Chà Nòi, Khe Gát, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước các
lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và nhân dân đã dựa
vào các “ vùng lỏm”, thung lủng làm nên những con đường vận tải chiến lược: đường Hồ Chí Minh tây và đông
Trường Sơn, đường 20-Quyết Thắng; sân bay dã chiến Khe Gát. Địa hình rừng núi
và núi cao đá vôi, là một kho tàng vô giá về đá vôi,
cây rừng, chim, thú rừng và là nơi “ rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”..còn
là nơi phát triển nghề trồng rừng, chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên, phần lớn
địa hình ở đây là núi cao và núi đá vôi; địa hình bị chia cắt mạnh,
sông suối nhiều , độ dốc lớn làm hạn chế đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội và triễn khai bố trí các lực lượng chiến đấu khi
chiến tranh nổ ra.
Chiếm 1/3 diện tích tự nhiên là vùng gò đồi là phần
chuyển tiếp giữa vùng rừng núi cao và núi dá vôi với vùng đồng bằng, vùng này có độ cao trung bình từ
100-200m. Đây là một vùng đất
đai rộng lớn, gồm núi thấp theo dạng hình bát úp kéo dài từ nông trường Việt-Trung và các
xã Lý Trạch, Nam
Trạch, Hòa Trạch, Tây trạch, Phú Định, Vạn Trạch, Hoàn Trạch, Cự nẫm, Sơn Lộc,
Hưng Trạch, Sơn Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch, Lâm Trạch. Do trãi dài từ đầu
huyện đến cuối huyện, vùng gò đồi trong lòng nó chứa nhiều loại đất có độ màu
mỡ khác nhau phù hợp với nhiều loại cây trồng nhất là cây công nghiệp: cao su,
hồ tiêu, thông nhựa, các cây lấy củ, cây ăn quả...Với đặc điểm đất đai,
diện tích rộng lớn, vùng gò đồi không chỉ đáp ứng cho việc phát triển kinh tế,
tổ chức lại dân cư trên địa bàn mà còn là nơi vô cùng thuận lợi cho việc bố trí
kho tàng, triển khai các loại vũ
khí, khí
tài quân sự, lực lượng chiến đấu đánh địch trong chiến tranh giãi phóng và
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vùng đồng bằng nằm dọc
hai bờ hạ lưu các con sông và các trục đường giao thông lớn. Tuy diện tích
không lớn nhưng lại có một vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội và quân sự hết
sức quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ vùng đất Bố
Trạch. Vùng đồng bằng tuy diện tích nhỏ và hẹp nhưng đây là vùng sản xuất
lúa gạo, hoa màu và là địa bàn cung cấp lực lượng lao động trong sản xuất
và binh lính trong chiến tranh. Chính vì vậy, khi có chiến tranh nơi đây thường
sớm trở thành chiến địa ác liệt giữa ta và địch nhằm chiếm lấy bằng được
nguồn lực lớn của cải và con người phục vụ cho chiến tranh.
Vùng ven biển trãi dài
trên 24 km, từ hạ lưu sông Gianh vào đến cửa sông Dinh, được ngăn cắt giữa biển
và làng mạc là những động cát kéo dài từ Bắc vào Nam còn gọi là đại Trường Sa
và tiểu Trường Sa, . Bờ biển ở đây bằng phẳng còn gọi là bãi ngang, tại dưới
chân đèo Lý Hòa và bãi Rầm ở thôn Đông Đức xã Đức Trạch do núi ăn
lan ra biển tạo nên những bãi đá còn gọi là rạn đá với hàng vạn hòn
đá to nhỏ nhô lên khỏi mặt nước hoặc nằm sâu dưới biển. Trên vùng đất ven biển
Bố Trạch có ba cửa sông lớn: cửa sông Gianh, sông Lý Hòa và sông Dinh, trong đó
cửa sông Gianh lớn nhất và sâu nhất có khả năng tàu vận tải 1000 tấn ra,
vào và đi sâu vào nội địa hơn chục km, là nơi có đủ điều kiện để xây dựng
cảng kinh tế và quân sự. Dọc bờ biển là nơi cư trú của cư dân bốn làng
biển: Thanh Trạch, Hải Trạch, Đức Trạch và Nhân Trạch, tuy dân số không đông
nhưng lại có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của
huyệ Bố Trạch; nơi đây hàng năm cung cấp hàng ngàn tấn hải sản dùng trong trao
đổi buôn bán, xuất khẩu và là nguồn thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày của mỗi
gia đình. Vùng đất ven biển chủ yếu là những đồi cát trắng, đây là một sự bất
lợi lớn trong việc xây dựng đường giao thông và các công trình quân sự: lô cốt,
hầm hào, các trận địa pháo trong chiến lược phòng thủ bảo vệ tuyến biển.
Vùng ven biển trong
chiến tranh là một hướng tấn quan trọng của kẻ địch từ biển vào, trong chiến
tranh nơi đây địch thường chọn làm nơi thả bọn biệt kích người nhái, thả hàng
tâm lý chiến, cho quân từ các tàu chiến ngoài khơi đổ bộ vào đất liền. Song do
địa hình là biển bãi ngang, bờ biển nông đây là một bất lợi lớn đối với các kẻ
địch khi cho quân đổ bộ bằng đường biển.
Một điều khác với các huyện trong tỉnh Quảng Bình, huyện Bố Trạch có dãy núi Bung
chạy vắt ngang địa hình từ Tây sang Đông là một nhánh của dãy Trường Sơn ăn lan
ra biển mà điểm cuối cùng của nó là đèo Lý Hòa. Dãy núi Bung chia đất đai Bố
Trạch thành hai tiểu vùng Bắc và Nam, điều này cũng gây nên những khó khăn nhất
định trong việc quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã
hội và triển khai, phối hợp trong chiến đấu khi chiến tranh nổ ra.
Cũng như các địa phương
khác trong tỉnh Quảng bình, Bố Trạch nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
lắm nắng, nhiều mưa. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 01 đến tháng 7, mùa này
thời tiết khô ráo, thường kéo theo những đợt gió tây nóng ( gió Lào) – Đây là
thời gian thuận lợi cho các hoạt đông quân sự trên địa bàn. Mùa mưa phổ biến từ
tháng 8 đến tháng 12 và thường tập trung vào tháng 9 và 10, lượng mưa trung
bình hàng năm vào khoảng 2.057mml, lượng mưa lớn nhất từ 1.169mm đến 1405mml.
Mùa mưa đồng thời cũng là mùa mưa bão, lụt lội nó không chỉ gây thiệt hại cho
sản xuất mà còn làm hư hỏng đường giao thông, cầu cống, kho tàng, nhà cửa gây
trở nại cho cuộc sống và hoạt động của con người. Về quân sự, đây là mùa đầy
khó khăn, gian khổ nhất đối với bộ độ ta, vùa chiến đấu vừa chống bão, lũ bảo
vệ dân. Trong chiến tranh xâm lược, kẻ địch thường lợi dụng, mưa bão, lũ lụt để
phản kích đánh bật bộ đội, du kích ta ra khỏi trận địa, làng mạc hòng mỡ
rộng vùng chiếm đóng...Do ở vào vùng khí hậu khắc nghiệt lắm mưa, nhiều nắng
cucng đã tác động mạnh và ảnh hưởng lớn đến hệ thống giao thông thủy, bộ trên
địa bàn Huyện.
Nhìn chung địa lý tự nhiên
của Bố Trạch sau lưng là núi trước mặt là biển, bị chia cắt nhiếu bởi sông
suối, núi đồi, là nơi hiểm yếu của đất nước. Bốn vùng địa hình kết hợp, xen kẻ
với nhau tạo thành thế cài răng lược, là địa thế thuận lợi choviệc xây dựng các
căn cứ, khu hậu cần, thuận lợi trong việc triển khai lực lượng tiến đánh địch ở
vùng đống bằng, đồng thời rút quân về vùng trung du, miền núi xây dựng củng cố
lực lượng nhờ mạng lưới giao thông đường bộ, đương thủy. Do đặc điểm địa hình ở
vào nơi hẹp nhất của đất nước, trong các cuộc chiến tranh, Bố Trạch sơm trở
thành chiến trường ác liệt giữa lực lượng chống chia cắt và chia cắt.
Bố Trạch ở vào nơi hẹp
nhất của đất nước lại ở sát nước bạn Lào và ở sát biển nên hệ thống giao thông
tương đối phát triển và đa dạng, có giá trị cao về kinh tế và quốc phòng. Trên
địa bàn Huyện ngoài hệ thống đường liên thôn, liên xã, có đường sắt, quốc lộ
1A, đường Hồ Chí Minh nhánh đông và tây, đường 15A, đường 20-quyết
thắng nối Việt Nam với Lào, đường hàng không, đường biển, đường
sông...Quốc lộ 1A chạy dọc trung tâm của huyện dài 31km bắt đầu từ nam cầu
Gianh đi qua nhiều vùng đông dân cư, qua cầu Thanh Ba, Khe nước, đèo Lý Hòa,
cầu Lý hòa, cầu Chánh Hòa đến xã Lý Trạch đi vào thành phố Đồng Hới.
Đường Hồ Chí Minh gồm hai nhánh, nhánh đông dài 1.676km, nhánh tây dài 510km cả
hai nhánh đếu đi qua huyện Bố Trạch.
Ngoài những tuyến đường
chính, ở Bố Trạch còn có đường 15A, đường 20-quyết thắng nối đường Hồ Chí Minh
nhánh đông với nhánh tây và vượt đại ngàn Trường Sơn sang Lào, đường tỉnh lộ 2B
( tỉnh lộ 560), tỉnh lộ 3 ( tỉnh lộ 566), tỉnh lộ 11( tỉnh lộ 565) nối quốc lộ
1A với đường Hồ Chí Minh nhánh đông, đường Ba Trại nối cầu Gianh với đường tỉnh
lộ số 2; trong đó phải kể đến tỉnh lộ 2 ( tỉnh lộ 561) dài nhất từ ngã ba thị
trấn Hoàn Lão đi qua ngã Ba Thọ Lộc, làng chiến đấu Cự Nẫm, nối đường Hồ
Chí Minh nhánh đông đến cầu Bùng, Xuân Sơn – Phong Nha, Troosoc, sân bay Khe
Gát, đèo Đá Đẻo lên huyện Minh Hóa miền tây tỉnh Quảng bình là những địa danh
nỗi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ngoài hệ thống đường
giao thông dùng cho xe cơ giới còn có các đường mòn dân sinh khi chiến
tranh nổ ra đóa là những tuyến đường giao liên vô cùng quan trọng; ở tuyến ven
biển có đường từ Quang Phú ra Nhân Trạch chạy xuyên qua các động cát Trung Trạch,
Đức Trạch ra Lý Hòa, lên Hỷ Duyệt qua Cự Nẫm đến Troosoc, đường giữa từ Nam
Trạch qua Đại Trạch ra Hoàn Trạch Đến Phú Trạch vượt Khe Sắn ra các xã Bắc
Trạch, Hạ Trạch, Mỹ Trạch ...đường núi từ bến Triêm ( Quảng Ninh) qua U Bò ra
Bồng Lai, Cổ Giang theo đường tỉnh lộ 2 lên Troosoc hoặc vượt sông Son sang Gia
Hưng...đây là con đường huyết mạch nối chiến khu phía Tây tỉnh Quảng Bình với
tỉnh Quảng Trị và vùng tự do Thanh – Nghệ - Tỉnh trong kháng chiến chống
Pháp. Cùng hệ thống đường bộ, Bố Trạch có tuyến đường sắt thống nhất chạy
qua Bố Trạch dài 30 km có 4 ga: Ngân Sơn, Thọ Lộc, Hoàn Lão, Phúc Tự đủ sức vận
chuyển, tiếp nhận các loại binh khí kỷ thuật, phương tiện chiến tranh hạng
nặng. Bên cạnh tuyến đường bộ, đường sắt, Bố Trạch có tuyến giao thông đường
thủy nội địa từ cảng Gianh theo sông Son lên lên các xã miền Tây, đặc
biệt cóa tuyến giao thông đường biển mà điểm đầu nối với các cảng trong cả nước
là cảng Gianh và 4 làng biển Thanh Trạch, Lý Hòa, Đức Trạch Nhân Trạch..
Hệ thống sông ngòi ở Bố Trạch phân bố tương đối đều
từ phía Bắc đến phía Nam, cứ khoảng 5km có một con sông,tất cả đều bắt nguồn từ
dãy Trường Sơn đổ ra biển. Bố Trạch có các con sông lớn: sông Gianh dài 150km,
đây là con sông đã từng đi vào lịch sử dân tộc bỡi lẽ vào thế kỷ XVIII nơi đây
đã từng xả ra những cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa hai dòng họ phong
kiến Trịnh – Nguyễn và để đến năm 1672, sông Gianh trở thành ranh giới chia cắt
đất nước ra hai xứ Đàng trong và Đàng ngoài gần một thế kỷ lam cho “ sông gianh
nước chảy đôi dòng/ Đèn chông đôi ngọn, biết trong ngọn nào”, hạ lưu rộng và
sâu tàu 1000 ra vào dể dàng. Sông Lý Hòa dài 25km, do đầu nguồn có hồ
thủy lợi Vực Nồi chặn mất nguồn nước đổ vào sông nên vào mùa khô tàu thuyền ra
vào khó khăn, mùa mưa tàu trọng tải dưới 50 tấn vào ra khá dể dàng. Sông Dinh,
dài 15km, đầu ngưồn có đập thủy lợi Đá Mài lượng nước ít nên mùa hè thương khô
cạn, mùa mưa tàu thuyền dưới 30 tấn vào trú bão. Ngoài ra, Bố Trạch còn có một
số con sông vừa và nhỏ: sông Thanh Ba, sông Bùng nhất là sông Son
một chi lưu của sông Gianh, đi qua các xã Phúc Trạch, Phong Nha – Sơn
Trạch, Hưng Trạch, Cự Nẫm, Liên Trạch, Mỹ Trạch đổ vào lưu vực sông
Gianh. Cùng với lưu vực sông Gianh, sông Son trong lịch sử chứa đựng trong mình
nó biết bao oán hờn, tủi nhục của nạn chia cắt đất nước và những vinh quang
chói lọi trên mặt trận giao thông vận tải.
Địa lý tự nhiên Bố Trạch
núi rừng chiếm hơn 2/3 diện tích, sông suối dày đặc không phải vì thế mà không
có những khoảng “ đất bằng phẳng” để xây dựng sân bay dã chiến phục vụ chiến
tranh. Trước năm 1954, để mỡ rộng chiến tranh đánh chiếm vùng tự do phía Tây Bố
Trạch, thực dân pháp đã cho xây dựng sân bay dã chiến ở Thọ Lộc và Thanh
Khê . Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, để trừng trị tàu chiến Mỹ, bộ đội, thanh niên xung
phong và nhân dân xã Xuân Trạch đã bất chấp bom đạn Mỹ, lao động không kể gian
khổ, hy sinh biến thung lũng Khe Gát thành sân bay dã chiến cho máy bay Mic 17
vào đánh tàu chiến Mỹ.
Hệ thống giao thông
đường thủy, đường bộ, đường không...trên đất Bố Trạch ngang dọc như ô bàn cờ.
Một điều khẳng định rằng, vùng đất Bố Trạch là nơi hội tụ và là nơi xuất phát
của các tuyến đường giao thông chiến lược quan trọng của đất nước vào Nam, ra
Bắc, sang Lào... Chính trên các tuyến đường giao thông này, chúng ta vận chuyển
hàng vạn lượt bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và hàng
triệu tấn hàng hóa lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng vũ khí đạn
dược, khí tài quân sự phục chiến trường trong hai cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Pháp và Mỹ cho đến ngày đất nước toàn thắng, non sông thu về một mối.
Ngày nay hệ thống giao thông trong chiến tranh đang góp phần quan trọng việc
phát triển kinh tế - xã hội sớm đưa vùng đất Bố Trạch nghèo khó, bị chiến tranh
tàn phá nặng nề tiến kịp các địa phương khác trong cả nước và hội nhập quốc tế
sâu sắc để xây dựng quê hương Bố Trạch giàu mạnh.
Địa lý tự nhiên, bốn vùng
địa hình kết hợp, xen kẽ nhau tạo thành thế cài răng lược là một thuận
lợi to lớn bổ trợ cho nhau không chỉ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội mà cả trong chiến lược quân sự. Là vùng đất không giàu có về tài nguyên
nhưng ở vào vị trí địa lý nơi hẹp nhất của đất nước, có núi rừng, trung du,
đồng bằng, biển cả và một hệ thống giao thông chiến lược xuyên Việt và đi sang
Lào vì thế Bố Trạch luôn nằm trong ý đồ của kẻ xâm lược. Do cấu tạo địa hình
mang tính đặc thù và phức tạp, nên Bố Trạch luôn có một vị trí chiến lược trong
kế sách bảo vệ đất nước của ông cha ta trước đây cũng như của Đảng và nhà nước
ta hiện nay; mặt khác cũng vì thế mà có những khó khăn trong việc thế trận
phòng thủ địa bàn, phòng thủ đất nước cũng như trong việc triễn khai các hoạt
động quân sự.
Trong lịch sử hình
thành, phát triển dân tộc và đất nước, Bố Trạch luôn là phần đất thiêng liêng
Tổ quốc Việt nam. Từ thời Vua Hùng dựng nước, vùng đất Bố Trạch nằm trong bộ
Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thời kỳ Bắc thuộc, nhà nước Âu
Lạc bị chia làm ba quận : Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam; vùng đất Bố Trạch
thuộc huyện Tượng Lâm quận Nhật nam. Vào năm 912 dưới thời nhà Hán, Khu Liên (
người huyện Tây Quyển) cùng nhân dân Chăm Pa nỗi dậy đánh đuổi bọn phong kiến
phương Bắc ra khỏi đất Nhật Nam, dựng nên nước Lâm Ấp có 5 châu: Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chinh, châu Ô và châu Lý; vùng đất Bố Trạch thuộc châu Bố Chinh. Năm
1069, để phá tan âm mưu cấu kết giữa quân xâm lược nhà Tống và nhà nước Chăm Pa
“ ...Một đạo quân Đại Việt do vua Lý Thánh Tông cầm đầu và đại tướng Lý Thường
Kiệt chỉ huy, đã tiến đánh vào tận kinh thành Chăm Pa ( thành Phật – Thệ). Để
chuộc tội, vua Chăm Pa đã cắt dâng 3 châu: Bố Chinh, Địa Lý, Ma Linh ( vùng đất
Quảng Bình – Quảng Trị ngày nay) cho nhà Lý * ( Lịch sử Việt Nam tập 1,
nxbkhoa học xã hội, Hà Nội 1976, tr172). Bố Trạch lúc này trở về với đất
nước Đại Việt. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, đời hậu Trần, Bố Trạch thuộc phủ Bố
Chính* ( Sdd) Đến thế kỷ XV sau khi đoạt ngôi nhà Trần,
nhà Hồ gọi phủ Bố Chính thành quận Tân Bình* ( Sdd) .
Sau khi quét sạch quân
xâm lược nhà Minh, dưới triều Lê vào đời Lê Thánh Tông (1460) quận Tân Bình
thưộc châu Thuận Hóa. Đến thời niên hiệu Hồng Đức thừ 21 (1490) mới định bản đồ
thiên hạ, Thừa tuyên Thuận Hóa có hai phủ Tân Bình và Triệu Phong. Năm 1558,
Nguyễn Hoàng được cử vào trấn thủ đất Thuận Quảng, đặt lại phủ Bố Chính ( Hà
Tỉnh, Quảng Bình) thuộc Thuận Hóa* Sdd . Đầu thế kỷ XVII, sau
khi đã cát cứ vùng Thuận Quảng, chúa Nguyễn chia Bố Chính thành hai phủ: Hà
Tỉnh và Quảng Bình, sau đổi gọi là dinh Quảng Bình. Cuối thế kỷ XVIII, năm 1788
Nguyễn Huệ đánh bại quân Trịnh _ Nguyễn thống nhất đất nước, đặt tên mới là
châu Thuận Chính. Đầu thế kỷ XIX, năm 1801sau khi đàn áp phong trào Tây Sơn
giành được chính quyền, Nguyễn Ánh trở lại gọi vùng đất Quảng Bình hiện nay là
Bố Chính nội nhằm phân biệt với vùng đất Bố Chính Ngoại ở bờ Bắc sông Gianh vốn
thuộc đất chúa Trịnh củ. Năm 1831 đời vua Mệnh Mạng thứ 12, sau định lại địa
giới hành chính tỉnh, huyện trong cả nước, vùng đất Bố Trạch ngày nay chính
thức được mang tên huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình. Dưới thời thực dân
Pháp cai trị, để đảm bảo quản lý chặt chẽ mọi hoạt động trong xã hội, chính
quyền Pháp ở Việt Nam đã cho tổ chức lại bộ máy hành chính cấp Huyện gồm có ba
cấp: Huyện – Tổng – Làng( làng, xã, phường..). Năm 1937, huyện Bố Trạch có 56
làng, xã phường và 5 tổng: Cao Lao - Hoàn Lão - Hoàn Phúc - Liên
Phương - Hà Bạc * ( Lương Duy Tâm Lecon de Gesographie du
QUẢNG BÌNH – 1937. IMPRIMERIE AN – THINH – HA NOI)
. Năm 1947, sau khi Quảng Bình bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược lần thứ 2, theo quyết định của Ủy ban kháng chiến hành chính
Tỉnh, tháng 7 – năm 1947, huyện Bố Trạch tiếp nhận thêm thôn Đá Mài của thị xã
Đồng Hới và các phường: Khe Gát, Vực Trô, Đá Chác, Đồng Nghẹn, Khe Ngang, Cây
Lim,
của tổng Thuận Thị, thuộc huyện Quảng Trạch. Toàn huyện Bố Trạch lúc này
có 8 xã: xã Bắc Trạch, Hải Trạch, Trung Trạch, Nam Trạch, Tây Trạch, Sơn Trạch,
Phúc Trạch và Thượng Trạch.* ( xã Bắc Trạch gồm: Mỹ
Trạch, Hạ Trạch, Bắc Trạch, Thanh Trạch; xã Hải Trạch gồm: Hải
Trạch, Đức Trạch, Đồng Trạch, Phú Trạch; Hoàn Trạch, Vạn Trạch; xã
Trung Trạch gồm: Trung Trạch, Đại Trạch; xã Nam Trạch gồm:
Nhân Trạch, Nam Trạch; Lý Trạch; xã Tây Trạch gồm: Đông Trạch(
Hòa Trạch), Tây Trạch; xã Sơn Trạch gồm: Cự Nẫm, Liên Trạch,
Hưng Trạch, Sơn Trạch; xã Phúc Trạch gồm:Phúc Trạch, Xuân
Trạch, Lâm Trạch và xã Thượng Trạch.) Năm 1954, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn giãi phóng, để phù hợp với tình hình
mới của cách mạng miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, tháng 5 – 1955 thực hiện
chủ trương của Tỉnh, huyện Bố Trạch điều chỉnh lại địa giới hành chính các xã
trong kháng chiến chống Pháp. Từ 8 xã được chia tách, điều chỉnh thành 24 xã:
Mỹ Trạch, Hạ Trạch, Bắc Trạch, Thanh Trạch, Hải Trạch, Đức Trạch, Đồng Trạch,
Phú Trạch, Hoàn Trạch, Vạn Trạch, Trung Trạch, Đại Trạch, Nhân Trạch, Nam
Trạch, Lý Trạch, Đông Trạch, Tây Trạch, Cự Nẫm, Hưng Trạch, Sơn Trạch, Liên
Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch, Lâm Trạch, Thượng Trạch. Năm 1961, Bộ đội Biên
phòng phát hiện một nhóm đồng bào Rục sống trên núi cao, trong các hang đá, sau
khi vận động và đưa đồng bào Rục ra sống định canh, định cư và thành lập xã Tân
Trạch; cũng trong thời gian này, thực hiện chủ trương của Bộ quốc phòng, nông
trường Phú Quý ( sau đổi tên thành nông trường Việt - Trung) được thành lập và
trên cơ sở đó thành lập thị trấn nông trường Việt - Trung. Năm 1968, để tránh
sự nhầm lẫn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và trong giao dịch hàng ngày của
nhân dân giữa hai xã: Đông Trạch và Đồng Trạch; xã Đông Trạch được đổi thành xã
Hòa Trạch. Năm 1986, trước yêu cầu thành lập trung tâm hành chính của Huyện và
một số xã thuộc vùng kinh tế mới, Chính phủ đã có quyết định thành lập thị trấn
Hoàn Lão ( tách từ một phần đất đai của xã Tây Trạch, Đại Trạch, Trung
Trạch và một phần dân số của xã Trung Trạch...) và hai xã Phú
Định, Sơn Lộc. Hiện nay, toàn huyện Bố Trạch có 28 xã, 2 thị trấn trong đó có
11 xã miền núi và rẻo cao. Trãi qua hàng trăm năm thành lập, xây dựng và phát
triển với biết bao thăng trầm của lịch sử, huyện Bố Trạch luôn luôn ổn định về
mặt địa giới hành chính so với nhiều huyện, thành phố khác trong tỉnh Quảng
Bình. Bố Trạch là một huyện ở vào nơi hẹp nhất của đất nước, có một vị trí chiến
lược hết sức quan trọng đối với cả nước trong mọi cuộc chiến tranh giãi phóng
dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Chính điều đó đã tạo dựng cho người dân
Bố Trạch luôn ở trong trạng thái của “người lính khoác áo nông dân” họ luôn
được tôi luyện và trưởng thành. Từ trong khó khăn, gian khổ ác liệt của
mưu sinh cuộc sống và đấu tranh sinh tồn đã tạo dựng nên con người Bố Trạch có
một bản chất anh dũng, kiên cường, vững vàng, luôn lạc quan đạp lên trên
mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, không khuất phục trước bất cứ kẻ thù hung
bạo nào, sống có trách nhiệm với dân tộc và Tổ
quốc.
Dân số ở Quảng Bình, theo số liệu thống kê năm 2010 toàn huyện có178. 603
người* ( Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
huyện Bố Trạch đến năm 2020 tr 28). Dân số phân bố giữa các vùng trong
huyện không đồng đều. Vùng đồng bằng ven biển, thị trấn mật độ dân số cao hơn
nhiều so với vùng miền núi. Dân cư ở Bố Trạch chủ yếu là dân tộc Kinh, ngoài ra
có một số dân tộc ít người Bru-Vân kiều, Chứt gồm các nhóm Khùa, Mày, Rục, Mã
Liềng...sống tập trung ở hai xã miền núi Tân Trạch và Thượng Trạch và bản
Rào Con của xã Sơn Trạch, bản Khe Ngát thuộc thị trấn Nông trường Việt Trung.
Một điều khẳng định dân cư Bố Trạch chủ yếu có nguồn gốc từ các tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tỉnh di cư vào dưới thời phong kiến. Sau năm 1945, do
yêu cầu của chiến đấu chống quân xâm lược Pháp và đế quốc Mỹ, hàng ngàn bộ đội,
thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã đến vùng đất Bố Trạch chiến đấu và
phục vụ chiến đấu, chiến tranh kết thúc nhiều người đã ở lại đây thành lập gia
đình sinh cơ lập nghiệp... Dù định cư ở vùng rừng núi hay sống ở đồng bằng, dù
trình độ văn hóa, kinh tế phát triển không đồng đều nhưng các dân tộc ở Bố
Trạch từ lâu đã sống gắn bó với nhau thành một cộng đồng dân cư thống nhất,
thương yêu, đùm bọc, sống chết có nhau trong chiến đấu cũng như trong lao động
sản xuất xây dựng và bảo vệ quê hương làm tròn nghĩa vụ với Tổ quốc.
Vùng đất Bố Trạch vốn là đất nước Chiêm Thành xưa, sau khi cư dân Đại Việt vào
định cư, nơi đây trở thành nơi hội tụ của hai nền văn hóa Việt – Chăm. Tuy vậy,
trãi qua hàng trăm năm định cư nền văn hóa Đại Việt ngày càng được định hình và
phát triển rực rỡ trở thành văn hóa chủ đạo. Ngày nay đến với Bố Trạch, người
ta dể dàng nhận thấy trên vùng đất này đâu đâu cũng hiện hữu rõ một nền văn hóa
Việt từ phong tục tập quán, lễ nghi, tiếng nói, ăn, ở, đi lại, sinh hoạt hàng
ngày, quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm...được bảo tồn rõ nét như sách Đại
Nam nhất thống chí viết: Làng nào cũng có đình, tế lễ vào mùa xuân, mùa thu,
ngày rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười gọi là tam nguyên, các nhà đêu cúng
tổ tiên. Đi cùng với các phong tục tập quán trên đây, ở mỗi làng, thôn Việt các
đình làng, đền miếu, chùa được dựng lên, những nơi này vừa thể hiện quyền lực
của giai cấp thống trị vừa là nơi để người dân lao động gữi gắm tâm nguyện và
chính những nơi này lưu giữ, bảo tồn những nét văn hóa làng xã Việt. Chính nền
văn hóa Việt đó đã tạo nên cội nguồn sức mạnh để nhân dân các làng xã có đầy đủ
sức mạnh để chống chọi với thiên tai, thú dữ, chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược; điều đó đã được lịch sử dân tộc khẳng định: “nước mất nhưng làng không
mất”, “còn làng, còn nước”.
II- TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
vùng đất và con người Bố Trạch luôn gắn liền với mỗi bước thăng trầm và phát
triển của lịch sử đất nước Việt Nam. Trong những thế kỷ đầu tiên dựng nước, đất
nước chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc, không chịu
cảnh sống trong cảnh “ nước mất, nhà tan” vào năm 40 – 43, Hai Bà Trưng
đã nỗi dậy phất cờ khởi nghĩa, trong cuộc đấu tranh vũ trang giành độc lập đầu
tiên cuardaan tộc ta đã có sự đóng góp của người dân vùng đất nam Hoành Sơn,
sách Đại Việt sử lược đã ghi : Dân ở Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Đặc
biệt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược cuối thế kỷ XIII (1285),
Bố Trạch là một trong những “ phên dậu” vững chắc ở phía nam nước Đại Việt.
Nhân dân Bố Trạch cùng với nhân dân trong vùng đã tích cực tham gia cùng quân
đội Đại Việt chiến đấu mũi tấn công vu hồi của quân Nguyên do tướng Toa Đô chie
huy từ Chăm Pa đánh ra, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, góp phần bảo vệ
vững chắc bờ cõi phía nam Đại Việt.
Năm 1425, dưới cờ khởi nghĩa của Lê Lợi, nhân dân vùng Hà Khương huyện Bố Trạch
đã nhất loạt nỗi dậy tham gia cùng nghĩa quân Lam Sơn do tướng Lê Hãn chỉ huy
chiến đấu đánh tan quân Minh ngay tại trên dòng sông Gianh góp phần giãi phóng
Tân Bình ( Quảng Bình và bắc Quảng Trị) khỏi ách thống trị của nhà Minh. Sau
khi quê hương được giãi phóng: “ tại đây quân Lê Lợi đã chọn lấy những người
tinh nhuệ, chia cắt quân hiệu tiến ra Đông đô tiếp tục cuộc kháng chiến đánh
đuổi quân Minh” * ( Lịch sử Việt Nam – Sdd tr 246)
Vào thế kỷ XVIII, trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai tập đoàn
phong kiến Trịnh – Nguyễn, trên vùng đất đôi bờ sông Gianh đã xảy ra 7 cuộc
chiến tranh lớn giữa quân đội chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Trong cảnh “ nồi
da, xáo thịt” do chiến tranh gây ra, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ
ra mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ lãnh đạo. Sau khi giãi phóng Phú Xuân, quân Tây Sơn do Nguyễn
Huệ chỉ huy kéo quân ra Bắc đánh chúa Trịnh, các tầng lớp nhân dân Bố
Trạch đã “ nỗi dậy phối hợp cùng nghĩa quân Tây Sơn đập tan sự kháng cự của 3
vạn quân Trịnh trên phòng tuyến sông Gianh và tiến ra Bắc Hà đánh đổ chế độ nhà
Trịnh, thống nhất đất nước.”* ( lịch sử Việt Nam Sdd tr 343).Tháng
12 năm 1788, nông dân trai tráng Bố Trạch lần nữa lại nô nức gia nhập vào quân
đội Tây Sơn cùng vua Quang Trung – Nguyễn Huệ ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh
xâm lược làm nên chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa chấm dứt thời đại xâm lược nước
ta của bọn phong kiến phương Bắc.
Sau khi vua Quang Trung – Nguyễn Huệ lâm bệnh qua đời, lợi dụng tình hình này,
Nguyễn Ánh cấu kết với người phương Tây lật đổ triều Tây Sơn lập nên chế độ
phong kiến nhà Nguyễn...Giành được quyền thống trị, Gia Long vị vua đầu tiên
của triều Nguyễn tập trung củng cố quyền lực, trà thù nhà Tây Sơn, đàn áp khốc
liệt các cuộc nỗi dậy của nông dân. Chính sách đối nội phản động, đối ngoại mù
quáng của triều Nguyễn đã tạo cơ hội cho thực dân pháp xâm lược nước ta. Năm
1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng mở màn cuộc chiến tranh xâm lược
nước ta. Sau khi hiệp ước Pa – tơ – nốt được ký kết giữa nhà Nguyễn và thực dân
Pháp, nước ta chính thức rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược.
Kiên quyết chống lại hành động phản dân hại nước của nhà Nguyễn, quan thượng
thư Tôn Thất Thuyết đứng đầu phe “ chủ chiến” đã lên kế hoạch tiến công quân
Pháp ở thành Huế. Cuộc tấn công thất bại, Tôn Thất Thuyết đã phò vư Hàm Nghi ra
căn cứ Tân Sở ( Quảng Trị) và ngày 13 – 7 – 1885 vua Hàm Nghi đã ban chiếu Cần
Vương kêu gọi toàn dân phò vua đánh Pháp. Để tiến hành cuộc kháng chiến chống
Pháp lâu dài, vua Hàm Nghi đã rời Tân Sở ra miền tây Quảng Bình. Hưởng ứng
phong trào Cần vương, nhiều cuộc khởi nghĩa nỗ ra khắp nơi trong cả nước, tại
Bố Trạch có cuộc khởi nghĩa của nông dân các địa phương phía bắc Huyện do tướng
Lê Mộ Khởi lãnh đạo đã lập căn cứ tại Ba Trại để chống Pháp. Năm 1889, vua Hàm
Nghi bị Pháp bắt, phong trào Cần Vương dần dần đi vào thoái trào.
Sau khi hoàn thành công cuộc chinh phục nước ta, thực dân Pháp bắt đầu công
cuộc khai thác thuộc địa vơ vét của cải, tài nguyên của nước ta trên quy mô
lớn. Do vị trí địa lý, tự nhiên của huyện Bố Trạch, thực dân Pháp đã tiến hành
xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, đường sắt đi qua Huyện nối với hệ thống
đường quốc gia; xây dựng tuyến đường tỉnh lộ từ Hoàn Lão lên Troóc. Đồng thời
thực dân Pháp chiếm hàng trăm héc ta đất vùng Ba Trại, Thọ Lộc để trồng
cây thông nhựa. Năm 1922, thực dân Pháp cho lập sở muối, sở kiểm lâm, sở thương
chánh tại Thanh Khê nhằm quản lý chặt chẽ các vật phẩm, sản vật và tiền thuế do
nhân dân ta làm ra...Chính từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
đã đưa đến người lao động bị bần cùng hóa, dẫn đến sự phân hóa giai cấp sâu sắc
và xuất hiện những mâu thuẫn xã hội cơ bản giữa nhân dân ta với thực dân Pháp
và địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt. Các phong trào đấu tranh đòi tự do,
dân chủ, phong trào yêu nước liên tục nổ ra khắp nơi trong cả nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử dân tộc, những cuộc khởi nghĩa của nông dân,
phong trào yêu nước khác do các sỹ phu yêu nước lãnh đạo nhưng vì chưa có được
một đường lối chính trị đúng đắn, nên không thể đưa sự nghiệp giãi phóng dân
tộc đi đến đích thắng lợi cuối cùng.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, vượt qua tầm nhìn và những hạn chế của các bậc
sỹ phu yêu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – người con ưu tú của dân tộc Việt Nam
với lòng yêu nước thiết tha, với 10 năm bôn ba hải ngoại đi khắp năm châu, bốn
biển tìm đường cứu nước. Sau cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm đến với chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tích cực hoạt động
trong phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế. Người đã trực tiếp truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào Việt Nam và Đông Dương. Cuối năm 1924, Người về
Quảng Châu ( Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, viết tác
phẩm Đường cách mệnh, tuyên truyền và thức tỉnh giai cấp công nhân, nông dân
lao động và những thanh niên yêu nước, đầy nhiệt huyết cách mạng, bồi dưỡng,
giáo dục họ thành những chiến sỹ cộng sản sẵn sàng xả thân vì giai cấp, vì nhân
dân, vì nền độc lập dân tộc.
Sau khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thành lập, ở Trung Kỳ tổ
chức Tân Việt cách mạng đảng (Đảng Tân Việt) cũng được thành lập, trên
quê hương Bố Trạch vinh dự có những người con ưu tú đầu tiên được kết nạp vào
tổ chức Tân Việt cách mạng đảng và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Năm
1929, trước sự phát triễn mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ và Nam
Kỳ, tại Trung Kỳ tổ chức Tân Việt cách mạng đảng tiến hành một chuộc cải
tổ sâu sắc về mặt tổ chức nhằm chọn lộc những phần tử đảng viên trung kiên có
xu hướng cộng sản tiến tới thành lập một tổ chức Cộng sản. Tháng 7 – 1929, Tổng
bộ Tân Việt cách mạng đảng cử đồng chí Lê Viết Lượng cán bộ của Tổng bộ, vào
hoạt động và trực tiếp theo giõi, lãnh đạo phong trào cách mạng ở ba tỉnh:
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Tại Quảng Bình, đồng chí Lê Viết Lượng đã
ga Bố Trạch (ga Kẻ Rấy)* (ga Bố Trạch lúc đó nằm trên đất xóm Kẻ Rấy, làng
Hòa Duyệt nay thuộc xã Tây Trạch – năm 1986, vùng đất ga Bố Trạch của xóm Kẻ
Rấy được cắt về cho thị trấn Hoàn Lão. Do ga Bố Trạch ở trên đất xóm Kẻ Rấy,
nên trong dân gian gọi đó là ga Kẻ Rấy.) gặp đồng chí Nguyễn Trọng Di xếp ga (
bí danh là xếp ga) và đồng chí Dương Đình Dư thầy giáo làng Hòa Duyệt (bí danh
là giáo Duyệt) những đảng viên đảng Tân Việt và các đồng chí Quách Tuân, Quách
Vĩnh cơ sở của Hội Việt Nam cách mạng nhằm tìm hiểu tình hình các tổ chức cách
mạng và hoạt động của đảng viên Tân Việt ở Quảng Bình. Sau khi Tân Việt cách
mạng đảng chuyển hóa thành Đông Dương cộng sản liên đoàn, tháng 12 – 1929, đồng
chí Lê Viết Lượng từ Huế ra ga Thuận Lý gặp đồng chí Điện ( Đèn) tiếp đó ra ga
Bố Trạch gặp hai đồng chí: Nguyễn Trọng Di và Dương Đình Dư, tại cuộc gặp này
đồng chí Lê Viết Lượng thông báo tình hình chuyển hóa của của Tân Việt cách
mạng đảng thành Đông Dương cộng sản liên đoàn, đồng thời chính thức cộng nhận
tổ chức Tân Việt cách mạng đảng ở ga Bố Trạch là chi bộ đảng của Đông Dương
cộng sản liên đoàn gồm có ba đồng chí: Điện, Nguyễn Trọng Di và Dương Đình Dư
do đồng chí Điện làm bí thư* ( Theo hồi ký của đồng chí Lê Viết
Lượng, bản đánh máy, tr.... tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo huyện ửy Bố
Trạch).
Trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phong trào cách mạng đòi hỏi phải có
một chính đảng duy nhất lãnh đạo, ngày 3 – 2 -1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
thay mặt Quốc tế cộng sản tiến hành Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam thành Đảng cộng sản Việt Nam, sau đổi tên là Đảng cộng sản Đông Dương.
Từ đây, ở Việt Nam và Đông Dương có một tổ chức cộng sản thống nhất, một chính
Đảng của giai cấp công nhân trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam,
chấm dứt hoàn toàn thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước, giãi phóng dân tộc.
Trong chánh cương sách lược vắn tắt của Đảng xác định rõ đường lối cách mạng
Việt Nam: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh.Tổ chức ra quân
đội công nông* ( Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb chính
trị quốc gia, H 2005, t2 tr2). Quân đội công nông là công cụ bạo lực sắc bén,
nồng cốt cho toàn dân đánh giặc. Mục tiêu cách mạng của Đảng cộng sản phù hợp
và đáp ứng được nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Tháng 10 – 1930,
trong Hội nghị lần thứ nhất của Đảng, đồng chí Trần Phú đã trình bày bản luận
cương chính trị quan trọng của Đảng. Bản luận cương tiếp tục khẳng định đường
lối cơ bản được nêu trong chánh cương vắn tắt của cách mạng Việt Nam. Thực hiện
chủ trương của Trung ương Đảng và xứ ủy Trung Kỳ về việc phát triển tổ chức
Đảng trong các địa phương. Sau khi chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy Thừa Thiên và trực
tiếp làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Lê Viết Lượng xứ ủy viên xứ ủy Trung Kỳ tiếp
tục ra chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy Quảng Trị ( 20-4-1930), đồng chí Lê Viết Lượng
ra huyện Bố Trạch chỉ đạo thành lập tổ chức Đảng ở Quảng Bình. Ngày 22 – 4
-1930, tại ga Bố Trạch ( ga Kẻ Rấy), dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Viết Lượng,
chi bộ Đảng cộng sản việt Nam đầu tiên của huyện Bố Trạch và trên đất Quảng
Bình được thành lập * (thông báo kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Bình khóa XV.......). Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng bình có ba
đồng chí: Nguyễn Trọng Di * (xếp ga Bố Trạch), Dương Đình Dư *(thầy giáo làng Hòa
Duyệt) và đồng chí Điện *(công nhân nhà máy đèn Đồng Hới), đồng chí Đèn
được bầu làm Bí thư chi bộ. Việc thành lập chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam ga Bố
Trạch đã được đồng chí Lê Viết Lượng báo cáo lên Xứ ủy Trung Kỳ thông qua tỉnh
ủy Quảng Trị công nhận là một bộ phận của Đảng cộng sản Việt Nam đây được xem
là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn, đánh dấu một bước chuyển mới
về chất của phong trào cách mạng ở huyện Bố Trạch nói riêng và tỉnh Quảng Bình
nói chung. Cùng với các địa phương khác, phong trào cách mạng ở Quảng Bình diễn
ra khá mạnh mẽ. Mỡ đầu là hoạt động hưởng ứng cao trào cách mạng 1930 – 1931 Xô
Viết Nghệ - Tỉnh tại thị xã Đồng Hới và huyện Bố Trạch. Đỉnh cao là vào ngày
Quốc tế lao động 1 – 5 - 1930, ngày 14 – 7 - 1930 ngày lễ quốc khánh nước cộng
hòa Pháp, ngày 1 – 8 – 1930 ngày phản đối đế quốc chiến tranh, ủng hộ Xô Viết
Nghệ - Tỉnh, ủng hộ Nga Xô, các đồng chí đảng viên chi bộ ga Bố Trạch đã phối
hợp với các cơ sở cách mạng ở Đồng hới tổ chức rãi truyền đơn, treo cờ đỏ búa
liềm ngay trên các trục đường chính từ cầu Mụ Kề, nhà thương vào đến nhà Bưu
điện, hoành cung...ngay giữa trung tâm thị xã. Tại Bố Trạch, trong những ngày
đầu tháng 6 – 1930 chi bộ đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của nông dân làng Võ Thuận
trong vụ án mạng chị Lê Thị Thận; tháng 7 lãnh đạo cuộc đấu tranh của
nông dân làng Hoàn Phúc chống tên địa chủ Bùi Huy Tín cấu kết với bọn hương lý
mua đất đầm phá Hạc Hãi; tháng 8 chi bộ lãnh đạo công nhân và nông dân các làng
dọc đường tỉnh lộ 2 đấu tranh chống đánh đập phu làm đường, đòi tăng lương giảm
giờ làm..Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Viết Lượng, hoạt động của chi bộ Đảng
ga Bố Trạch và phong trào cách mạng ở hai địa phương thị xã Đồng Hới và huyện
Bố Trạch đầu năm 1930 phát triễn mạnh mẽ. Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động
rãi truyền đơn, treo cờ Đảng tuyên truyền cách mạng vận động, kêu gọi và tổ
chức quần chúng đấu tranh chống lại ách thống trị và sự áp bức của chính quyền
thực dân và phong kiến; Chi bộ đảng ga Bố Trạch còn đi sâu tuyền truyền, giáo
dục giác ngộ cách mạng , xây dựng cơ sở đảng trong một số công nhân đường sắt
làm việc ở ga Ngân Sơn, ga Sa Lung và trong nông dân. Tại Làng Lý Hòa, đảng
viên chi bộ ga Bố Trạch cùng đồng chí Lê Viết Lượng đã tuyên truyền vận động
được một số ngư dân thành cơ sở cách mạng và tháng 8 – 1930 đã thành lập tổ
Nông hội đỏ, một tổ chức quần chúng cách mạng đầu tiên ở Quảng Bình dưới sự
lãnh đạo của chi bộ Đảng ga Bố Trạch. Tháng 5 – 1931, phát hiện được các hoạt
động của chi bộ Đảng ga Bố Trạch, chính quyền thực dân Pháp ở Quảng Bình đã
điều lực lượng quận đội ở thị xã Đồng Hới ra khủng bố, lùng bắt các đồng chí
đảng viên cộng sản và trấn áp phong trào cách mạng địa phương; hầu hầu hết đảng
viên chi bộ Đảng ga Bố Trạch bị địch bắt và kết án tù với mức cao nhất 5 năm.
Chính vì vậy hoạt động của chi bộ Đảng ga Bố Trạch và phong trào cách mạng của
quần chúng tạm thời lắng xuống.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố nhưng với tinh thần cách mạng của người đảng
viên cộng sản dù ở trong nhà tù đế quốc hay được địch sớm thả tự do, những
người đảng viên chi bộ Đảng cộng sản ga Bố Trạch vẫn luôn tin tưởng vào lý
tưởng mà mình đã chọn, đợi có thời cơ là hoạt động. Từ năm 1935 trở đi, các
đồng chí đảng viên có số hạn tù cao nhất được trả tự tục hoạt động gây dựng cơ
sở cách mạng trong điều kiện đứt liên lạc, thiếu sự chỉ đạo của Trung ương và
Xứ ủy. Tuy vậy, với sự bao quát, nhạy bén trong nắm bắt tình hình và với ý chí
cách mạng của người đảng viên cộng sản, các đồng chí đảng viên đã tiếp tục hoạt
động xây dựng cơ sở, vận động tập hợp quần chúng đem đến phong trào cách
mạng dần dần được khôi phục và phát triển. Qua các cuộc vây ráp lùng bắt cán bộ
cách mạng trong những năm 1930 – 1931, nhân dân càng thấy rõ bộ măt thật của
thực dân pháp và bọn phong kiến tay sai. Do đó, sau khi Mặt trận dân chủ thành
lập, đông đảo quần chúng nhân dân đã hưởng ứng tham gia cùng nhau chống Pháp.
Trong các cuộc biểu tình đón phái đoàn Gô Đa, hai lần bầu đại biểu vào
Viện dân biểu Trung Kỳ, dưới sự lãnh đạo của các đồng chí đảng viên và quần
chúng trung kiên, quần chúng nhân dân khắp các địa phương trong huyện đã vận
động nhau đi bỏ phiếu cho các đại biểu do mặt trận phản đế giới thiệu và cử đại
diện quần chúng vào Huế trình bản “ Dân nguyện” gồm 10 điều thỉnh cầu gữi lên
Viện dân biểu đã thu được những thắng lợi bước đầu.
Tháng 9 – 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, tình hình Đông Dương
và Việt Nam có những chuyển biến mau lẹ. Để nhanh chóng chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng, tháng 11 – 1939, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ
6, quyết định chuyển Mặt trận dân chủ thành Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương và chuyển mọi hoạt động cách mạng từ công khai, nữa công khai vào
hoạt động bí mật. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã đẩy các bên tham chiến vào
vòng xoáy, nước Pháp ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh và nhận lấy những
tổn hại vô cùng to lớn về quân sự, kinh tế - xã hội. ở Đông Dương, lợi dụng
tình hình khó khăn của Pháp, phát xít Nhật tiến vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam
trong cùng một lúc chịu cảnh sống: “ một cổ hai tròng”.
Tháng 1 – 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Tháng 5 – 1941, Trung ương Đảng họp Hội nghi lần thứ 8, quyết định
chuyển trọng tâm cuộc cách mạng giãi phóng dân tộc lên hàng đầu và khẳng định:
“ Trong lúc này nếu không giãi quyết được vấn đề giãi phóng dân tộc, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia ,
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được.”* ( Nghị quyết hội nghi TW lần thứ 8
Sdd) Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, xây
dựng căn cứ địa cách mạng, tổ chức lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi điều kiện
để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghi cũng đề ra Điều lệ tóm tắt
của Đảng và Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cứu quốc. Trong đó có Điều lệ của
Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc, quy định về mặt tổ chức: “ Mỗi đoàn thể cứu
quốc của Việt Minh tổ chức ra tiểu tổ du kích...có từ ba đến bảy đội viên
thi tổ chức một tiểu tổ du kích cứu quốc, có một tiểu tổ đội trưởng chỉ
huy, có từ 2 tiểu tổ du kích trở lên thì tổ chức thành liên tiểu tổ, có một
liên tiểu tổ đội trưởng và phó liên đội và một ủy viên chính trị chỉ huy.* (
Đảng CSVN, văn kiện Đảng toàn tập, Sdd 2000 t7, tr160 – 161).
Năm 1940, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng có
lợi cho cách mạng Việt Nam. Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ( 27 – 9 -1940), Nam Kỳ
( 22-11-1940), Đô Lương ( 13-1-1941) trong cả nước nhiều tổ chức vũ trang được
thành lập. Thực hiện chủ trương của Hồ Chủ Tịch, ngày 22-12-1944 đội Việt Nam
tuyên truyền giãi phóng quân được thành lập. Đây là giai đoạn phong trào cách
mạng trong cả nước bước vào thời kỳ hoạt động khẩn trương và sôi nổi nhất.Ngày
9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Tiếp đó Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị: “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta..” trong
đó khẳng định “ cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị
sau sắc là cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang mau chóng đi tới cổ
chín muồi..”. Đồng thời với chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Hội nghị
quân sự cách mạng Bắc Kỳ từ ngày 16 đến 20-4-1945 cũng xác định “ Tình thế đã
đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong
lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ
địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”.*( ĐCSVN
văn kiện Đảng toàn tập Sdd 2000, tr391). Tại Quảng Bình do mất liên với
Trung ương và Xứ ủy nên mãi đến tháng 3-1942, tỉnh ủy Quảng Trị cử đồng chí Bùi
Trung Lập ra truyền đạt Nghị quyết Trung ương 8. Đồng chí Bùi Trung Lập đã đến
Lệ Thủy truyền đạt tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 cho các đồng chí đảng viên
chi bộ Mỹ Thổ-Trung Lực. Tại huyện Quảng Trạch, đồng chí Bùi Trung Lực tuyền
đạt cho các đồng chí trong Ban cán sự Phủ ủy và tại Đồng Hới, đồng chí Bùi
Trung Lập truyền đạt tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 cho đồng chí Hoàng Văn
Diệm. Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, các tổ chức Đảng
ở Quảng Bình đã nhanh chóng tuyền đạt cho các cho các tổ chức Đảng, các đảng
viên và quần chúng trung kiên. Tháng 2-1942, tại hai huyện Lệ Thủy và
Quảng Trạch đã thành lập Măt trận Việt Minh. Cùng với các địa phương trong
tỉnh, tại huyện Bố Trạch các đồng chí Dương Đình Dư, Phan Khắc Diến *( người
làng Lý Hòa) được đồng chí Hoàng Văn Diệm truyền đạt nội dung Nghị quyết Trung
ương 8, cũng vào thời gian này Phủ ủy Quảng Trạch cử nhiều đảng viên vào các
địa phương Hòa Duyệt, Cự Nẫm Lý Hòa, Cao Lao Hạ hoạt động dạy học để tìm bắt
liên lạc với các đảng viên và xây dựng cơ sở cách mạng.......tháng 6-1945 Việt
Minh huyện đã phối hợp tổ chức đêm đốt lữa trại cho 500 thanh niên hai địa
phương Bố Trạch và thị xã Đồng Hới tại sân vận động Hoàn Lão. Ngay sau đốt lữa
trại, tại nhà anh Nguyễn Thừa Hạ ( thôn Trung Đông xã Trung Trạch), Mặt trận
Việt minh huyện Bố Trạch được thành lập, đồng chí Dương Đình Dư được bầu làm
chủ tịch Mặt trận. Thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về
công tác Đảng và Mặt trận Việt Minh: phải tổ chức những ủy ban quân sự, chính
trị chỉ huy đặc biệt của các đội du kích...các Đảng bộ phải tổ chức và củng cố
các độ tự vệ và tiểu tổ du kích, đồng thời phải huấn luyện quân sự cho các tổ
chức ấy.* (Lịch sử Đảng bộ Quân khu 4 trong kháng chiến chống pháp (1945-1954)
nxb QĐND) Nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, Mặt
trận Việt Minh và vai trò đấu tranh vũ trang cách mạng trong cách mạng giãi
phóng dân tộc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tại Quảng Bình, ngày
2-7-1945, đã tiến hành Hội nghị Đảng toàn tỉnh tại chùa An Xá ( Lệ Thủy) trong
hội nghị này huyện Bố Trạch có đồng chí Dương Đình Dư tham dự; Hội nghị đã nhất
trí bầu ra “ Ban vận động thống nhất Đảng gồm có 3 đồng chí: Đoàn Khuê ( Trưởng
Ban), Võ Hồng Thanh và Võ Thuần Nho ( Lịch sử cạch mang tháng 8 tỉnh Quảng
Bình ( sơ thảo) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình biên soạn và ấn
hành năm 1974 tr 44, 45, 46). Ngày 4-7-1945, tại trại xản xuất An Sinh ( xã
Trường Thủy, Lệ Thủy) đã diễn ra Hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh tỉnh
Quảng Bình, tại Hội nghị này Bố Trạch có đồng chí Dương Đình Dư tham gia. Hội
nghị đã bầu Ban chấp hành gồm 07 đồng chí, cử ra Ban thường trực gồm 3 đồng
chí: Đoàn Khuê, Võ Hồng Thanh, Võ Thuần Nho, trụ sở Tỉnh bộ Việt Minh tại làng
Mỹ Thổ ( Lệ Thủy), và vạch ra chương trình hành động “ Gấp rút thống nhất lực
lượng Việt Minh, củng cố Ban chấp hành Việt Minh, xúc tiến việc tự vệ chiến
đấu, xây dựng lực lượng vũ trang. Thành lập chiến khu, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền xung phong”* (Lịch sử cách mạng tháng 8 Sdd). Chỉ sau một
thời gian ngắn từ tháng 6 đến tháng 7-1945, ở Bố Trạch phong trào cách mạng đã
có bước chuyển mới rất cơ bản. Sau chiền thắng Phát xít Đức, ngày 13-8-1945,
Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Phát xít Nhật ở Mãn Châu (
Trung Quốc), ngày 15-9-1945, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và quân đồng minh
không điều kiện. Ở Đông Dương phát xít Nhật hoang mang cực độ...thời cơ cách
mạng đã xuất hiện. Hưởng ứng lời kêu gọi “ Toàn quốc tổng khởi nghĩa” của chủ
tịch Hồ Chí Minh và quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngày
17-8-1945, Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Bình họp Hội nghị tiếp nhận lệnh tổng khởi
nghĩa của Trung ương Đảng do đồng chí Tố Hữu vào truyền đạt, tại hội nghị này
đại diện cho Việt Minh Bố Trạch dự họp có đồng chí Đoàn Bá Thừa. Hội nghị đã
quyết định lấy ngày 23-8-1945 làm ngày khởi nghĩa chung của toàn tỉnh và bầu Ủy
Ban khởi nghĩa và Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh do đồng chí Trần
Văn Sớ làm chủ tịch.
Không khí cách mạng sôi sục khắp nơi, quần chúng nhân dân bừng bừng khí thế,
chỉ chờ có lệnh là vùng lên khởi nghĩa.
Thực hiện kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, ngày 21-8-1945, Huyện bộ Việt
Minh Bố Trạch triệu tập Hội nghị tại ga Bố trạch, Hội nghị thảo luận và thống
nhất kế hoạch khởi nghĩa chung của huyện: Tiến hành khởi nghĩa giành chính
quyền ở huyện đường Hoàn Lão và thanh khê. Huy động mọi tầng lớp nhân dân tham
gia lấy lực lượng tự vệ và các đội tuyên truyền xung phong làm nồng cốt. Thời
gian khởi nghĩa vào lúc 5 giờ sáng ngày 23-8-1945. Hội nghị bầu Ủy ban khởi
nghĩa và Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời Huyện do đồng chí Dương Đình Dư làm
chủ tịch.
Đêm 22 rạng sáng ngày 23-81945, các tầng lớp nhân dân các địa phương xung quanh
Hoàn Lão với băng cờ, biểu ngữ, gươm, giào gậy gộc kéo về ga Bố Trạch cờ lệnh
của Ủy Ban khởi nghĩa Huyện. Trước khí thế sục sôi cách mạng của đoàn người
Khởi nghĩa, vào lúc 1 giờ sáng ngày 23-8-1945,Ủy ban khởi nghĩa Huyện đã
phát lệnh khởi nghĩa. Dòng người khởi nghĩa từ ga Bố trạch và các ngã đường
nhanh cóng kéo về Hoàn Lão, bao vây Huyện đường, trại lính lệ, áp đảo kẻ thù
ngay từ phút đầu tiên. Tại Thanh Khê, sau khi tiếp nhận được lệnh khởi
nghĩa đã nhanh chóng vượt sông Thanh Ba sang phối hợp với quần chúng ở thanh
Khê bao vây sở muối, sở thương chánh, sở kiểm lâm và trại lính. Trước áp lực
của cách mạng, huyện trưởng Tôn Thất Chiêm Sử, quan lại và một số lý
trưởng khét tiếng gian ác, ngoan cố phải cúi đầu khuất phục trước sức
mạnh của quần chúng nhân dân. Cùng cuộc khởi nghĩa ở Huyện đường Hoàn Lão và
Thanh Khê, Ủy Ban khởi nghĩa các địa phương theo kế hoạch đã chủ động tổ chức
quần chúng đứng lên khởi nghĩa thu thắng lợi lớn.
Sáng ngày 23-8-1945, Ủy Ban khởi nghĩa Huyện tổ chức cuộc mít tin lớn, đồng chí
Dương Đình Dư thay mặt Ủy Ban khởi nghĩa Huyện trịnh trọng tuyên bố với nhân
dân toàn huyện: xóa bỏ bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính
quyền cách mạng. Công bố chính sách của Mặt Trận Việt Minh và kêu gọi nhân dân
đoàn kết cùng nhau bảo vệ nền độc lập dân tộc, sẵn sàng chiến đấu đánh bại các
âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, xây dựng cuộc
sống mới; đồng thời tuyên bố ra mắt Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Bố
Trạch do đồng chí Dương Đình Dư làm chủ tịch.
Như vậy, chỉ trong vòng 7 ngày từ 17 đến 23, thực hiện chủ trương của Trung
ương Đảng và lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ đảng
viên và lực lượng Việt Minh Bố Trạch đã lãnh đạo nhân dân , tự vệ, toàn huyện
cùng với nhân dân cả nước nhất tề dứng dậy Tổng khởi nghĩa thắng lợi, đập tan
bộ máy thống trị của thực dân Pháp và phong kiến Nam triều, giành chính quyền
về tay nhân dân. Cách mạng tháng 8-1945 thành công ở Bố Trạch và các huyện
trong tỉnh cùng như cả nước là cả một quá trình đấu tranh kiên cường và sự hy
sinh vô cùng anh dũng của biết bao đảng viên cộng sản và chiến sỹ cách mạng
trung kiên và sự hy sinh của lớn lao của nhân dân suốt thời kỳ cách mạng từ khi
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng giãi
phóng dân tộc. Trãi qua 15 năm đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã giành được chính quyền một lần nữa
khẳng định truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh chống ngoại
xâm của nhân dân ta vì nền độc lập dân tộc là vĩnh cữu, và vô địch.
Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt nam, cùng với sự phát triễn ngày càng lớn mạnh của quân đội nhân dân Việt
Nam, lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch có sự phát triễn không ngừng. Từ các tổ
tự vệ các địa phương phát triễn lên thành trung đội du kích tập trung, tiên tới
thành lập đại độ bộ đội địa phương Huyện và dưới nó là hàng trăm trung đội du
kích, dân quân tự vệ trong các địa phương, cơ quan, xí nghiệp...Đi cùng sự phát
triễn của lực lượng vũ trang chiến đấu, tổ chức Đảng, hệ thống bộ máy chỉ huy,
quản lý quân sự ra đời. Từ một đồng chí đảm nhiệm chức vụ Ủy viên quân sự nằm
trong cơ quan Huyện ( gồm Huyện ủy, Ủy Ban hành chính kháng chiến, Mặt trận
đoàn thể), đến Huyện đội bộ và Ban chỉ huy quân sự Huyện. Tổ chức Đảng từ chổ
sinh hoạt Chi bộ Đảng cơ quan Huyện, đến thành lập chi bộ Đảng cơ quan Huyện
đội bộ và Đảng bộ Ban chỉ huy quân sự Huyện.
Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Quân Khu, Đảng ủy Bộ chỉ huy
quân sự Tỉnh mà trực tiếp của Ban chấp hành đảng bộ Huyện và Đảng ủy các
xã, thị trấn, hệ thống tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang Huyện không ngừng
được tăng cường, củng cố và hoàn thiện đúng theo yêu cầu của công tác xây dựng
Đảng trong lực lượng vũ trang. Chính vì vậy, công tác Đảng, công tác chính trị,
công tác tổ chức, chỉ huy và các hoạt động xây dựng lực lượng, tổ chức chiến
đấu, lao động sản xuất, công tác quần chúng của Đảng bộ quân sự Huyện ngày càng
hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Phần thứ nhất.
TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CƠ QUAN CHỈ HUY QUÂN SỰ VÀ
ĐƠN VỊ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÙNG TOÀN DÂN
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ( 1945 – 1954)
Chương
1
THÀNH LẬP CÁC ĐỘI TỰ VỆ ĐẦU TIÊN CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN CÙNG THAM GIA
KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ CHUẨN BỊ KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ( 1945 – 3 – 1947).
1*
TỔ CHỨC ĐẢNG ĐỊA PHƯƠNG TRỰC TIẾP TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG TỰ VỆ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, nói về cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc chỉ rõ: Muốn làm cách mạng thành công, phải biết dựa vào lực lượng
quần chúng nhân dân, chủ yếu là lực lượng công nhân và nông dân, phải có Đảng
theo chủ nghĩa Mác – Lê nin vững mạnh, thống nhất, hy sinh, gan gốc* ( Tập
bài giảng lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, H 1977, tr66). Ngay sau khi ra đời, với sứ mệnh là một chính Đảng nắm
quyền lãnh đạo, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định con đường duy nhất đúng để
giành chính quyền là phải sử dụng cách mạng bạo lực. Trong thông báo ngày
3-1-1931, gửi các Xứ ủy, Ban thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: “ Phải dựa vào
sức mạnh của quần chúng mà chống khủng bố, đồng thời phải đẩy mạnh phát triển
các đội tự vệ công nông để bảo vệ cho quần chúng đấu tranh...khi có đấu tranh
thì các đội tự vệ phải đi đầu, đi kè quần chúng mà hộ vệ...”* (Lịch sử ĐCSVN
Sdd tr145).Tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất ( tháng 3-1935) xã
định: “ Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở Đảng, có Đoàn, có
các hội quần chúng mà không có tổ chức đội tự vệ...”* ( lịch sử
ĐCSVN Sdd, tr 146).
Sau khi ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nổ ra mạnh mẽ, rộng khắp trong
cả nước. Chính từ trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, các tổ
chức Đảng các địa phương được thành lập. Tại ga Bố Trạch, ngày 22-4-1930 Chi bộ
Đảng cộng sản Việt Nam đầu tiên của Huyện Bố Trạch và cũng là chi bộ Đảng cộng
sản đầu tiên trên đất Quảng Bình được thành lập.* ( lịch sử Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình, t1 1930-1954 sơ thảo, tr40 và thông
báo...........................).
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, ngoài các hoạt động rãi truyền đơn,
treo cờ Đảng kêu gọi, vận động công nhân, nông dân, học sinh trí thức đứng dậy
đi theo Đảng làm cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành độc lập
dân tộc. Tổ chức Đảng và các đồng chí đảng viên chú trọng đến công tác tuyên
truyền, giáo dục, bồi dưỡng xây dựng những quần chúng trung kiên trở thành các
cơ sở cách mạng, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quần chúng cách mạng cho việc đấu
tranh chính trị và xây dựng tự vệ vũ trang cách mạng của Đảng.
Ngày 1- 9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Hai ngày sau Pháp và
Anh tuyên chiến với phát xít Đức. Đông Dương là thuộc địa của Pháp, nên nhanh
chóng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh. Tháng 6-1940, nước Pháp
bị phát xít Đức chiếm đóng. Phát xít Nhật lợi dụng cơ hội đó liền nhảy vào xâm
lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng để cho quân Nhật chiếm đóng
Đông Dương. Từ đây, nhân dân Việt Nam bị hai tầng áp bức, bóc lột hết sức
nặng nề. Với truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, kiên cường, lại được
Đảng công sản giáo dục và lãnh đạo, nhân dân ta đã liên tiếp nỗi dậy chống cả
Pháp lẫn Nhật. Sau hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (
23-11-1940) và cuộc binh biến Đô Lương (13-1-1941)tuy chưa giành được thắng
lợi, nhưng đó là tiếng súng cho các cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu
tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương* ( Văn kiện Đảng t1 1930-1945
Sdd tr189). Thời cuộc diễn biến ngày một mau lẹ đòi hỏi Đảng phải tăng cường
lãnh đạo chặt chẽ và cụ thể hơn.
Tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Ban chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 8, để ra nhiệm vụ về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu
cao nhiệm vụ giãi phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Hội nghị xúc tiến công tác chuẩn bị khởi
nghĩa, xem đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong giai đoạn
hiện nay,* (Sdd tr213)tiến hành xây dựng khu căn cứ du kích. Hội nghị nhấn mạnh
“ phải luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận lợi hơn cả
mà đánh lại quân thù...lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mỡ
đường cho tổng khởi nghĩa to lớn hơn.*( Sdd tr 213).
Năm 1945, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi biên giới và tiếp
tục truy kích chúng đến sào huyệt Đức quốc xã. Trên mặt trận Thái Bình Dương,
quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại, vận mệnh phát xít Nhật đang từng ngày,
từng giờ lung lay tận gốc. Ở nước Pháp, sau khi Pa-ri được giãi phóng và trước
thế khốn quẩn của Nhật, bọn Pháp phái Đờ-Gôn ở Đông Dương âm mưu chờ đợi khi quân
đồng minh vào đánh Nhật sẽ ngóc đầu dậy khôi phục quyền thống trị của của
chúng. Mâu thuẫn Pháp-Nhật ngày càng gay gắt, tình thế Nhật trên mặt trận Thái
Bình Dương ngày càng khốn quẩn buộc Nhật phải tính toán làm cuộc đảo chính, hất
cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương và ngăn ngừa hậu họa khi quân đồng minh kéo
vào.
Đêm 9-3-1945, cùng một lúc trên toàn cõi Đông Dương, Nhật nổ súng tấn công
Pháp, chưa đầy một ngày sau quân đội Pháp đã quỳ gối đầu hàng nhục nhã.
Trước tình hình thế giới và trong nước có sự chuyển hướng mau lẹ, từ ngày 9 đến
12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị và ra chủ trương “ Phát
động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi
nghĩa”* ( Nhật –Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; Văn kiện Đảng
(25-1-1939 đến 2-9-1945 ) NxbST H1963 tr474 ). Hội nghị cũng ra chỉ thị “
Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Xuất phát từ đặc điểm riêng của Quảng Bình đến lúc này toàn tỉnh chưa có một tổ
chức Đảng thống nhất, các tổ chức cơ sở đảng được thành lập và chịu sự chỉ đạo
từ những đầu mối khác nhau, thậm chí có địa phương chưa có tổ chức đảng, có nơi
đảng viên hoạt động trong bí mật không dám bắt liên lạc với các đảng viên ở nơi
khác đến hoạt động...chính vì thế trong một thời gian dài việc tiếp nhận
các Nghị quyết 6, 7 và 8, của Trung ương Đảng và các chủ trương, chỉ thị
của Xứ ủy chậm từ đó việc triển khai tổ chức thực hiện hoàn toàn bế
tắc, đưa đến phong trào cách mạng trong các địa phương của tỉnh Quảng Bình phát
triển không mạnh, không đồng đều, thiếu sự thống nhất
Nằm trong bối cảnh phong trào cách mạng chung của cả Tỉnh, tại Bố Trạch do hậu
quả của cuộc khủng bố năm 1931, một số đảng viên “ Chi bộ ga Bố Trạch” bị
địch bắt kết án tù, số còn lại bị trục xuất khỏi địa bàn.Vì vậy sau năm 1935,
trong suốt một thời gian dài, tổ chức Đảng của huyện không có đủ điều kiện
để phục hồi. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc nối lại liên lạc
với cấp trên để nắm bắt các Nghị quyết, chủ trương của Trung ương Đảng và của
Xứ ủy. Với tinh thần cách mạng của người Đảng viên cộng sản, các đồng chí Dương
Đình Dư, Quách Tuân... đảng viên “ Chi bộ ga Bố Trạch” sau khi mãn hạn tù trở
về địa phương đã chủ động tự tìm hiểu nắm bắt tình hình cách mạng trong vùng,
tìm bắt liên lạc với đồng chí Hoàng Văn Diệm cơ sở Đảng ở thị xã Đồng Hới, qua
đó đã định hướng hoạt động, tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng củng cố
lại phong trào.. ( Bổ sung sư kiện vụ bán vãi, đố lữ trại ở Đức
Trạch....)
Trong tình hình phong trào cách mạng ở một số tỉnh miền trung phần tán về lực
lượng, thiếu sự lãnh đạo thông nhất của một tổ chức đảng, ngày 27-6-1945, Trung
ương Đảng đã gữi thư kêu gọi những người cộng sản ở miền Trung hãy thống nhất
lại “ Dưới ngọn cờ chói lọi của Đảng, tụ tập chung quanh Ban chấp hành Trung
ương Đảng chuẩn bị lãnh đạo một cuộc chiến đấu quyết liệt, tống cổ giặc Nhật ra
khỏi nước, đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim giành lấy độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc”. Thực hiện lời kêu gọi trong thư của Ban chấp hành
Trung ương Đảng, Ủy ban thống nhất Trung kỳ ra lời kêu gọi đoàn kết, đồng thời
cử một số cán bộ đến công tác ở các tỉnh miền Trung nơi có phong trào còn yếu.
Cuối tháng 6-1945, đồng chí Hồng Xích Tâm cán bộ Xứ ủy mang theo chỉ thị
“Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Thường vụ Trung ương Đảng,
thư của Ban chấp hành Trung ương , lời kêu gọi của Ủy ban thống nhất Trung kỳ
và các tài liệu của Tổng bộ Việt Minh vào Quảng Bình. Tại Lệ Thủy, đồng chí
Hồng Xích Tâm đã gặp một số đảng viên cốt cán bà biện pháp chắp nối liên lạc
với các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng ở các địa phương để mở hội nghị thống
nhất tổ chức Đảng trong toàn tỉnh và tiếp thu chỉ thị “ Nhật –Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng.
Cũng trong thời gian này, phát hiện tổ chức “ thanh niên Phan Anh” do thủ
lĩnh Lê Như Quyến cầm đầu sẽ tổ chức đêm đốt lửa trại tại sân vận động Hoàn
Lão. Thấy đây là cơ hội tốt để mở rộng Việt Minh và tổ chức thanh niên cứ quốc
mở rộng tầm ảnh hưởng trong dân chúng, đồng chí Dương Đình Dư và các đồng chí
cán bộ Việt Minh huyện đã gặp đồng chí Hoàng Văn Diệm, cơ sở đảng ở thị xã Đồng
Hới cùng bàn việc tổ chức đưa thanh niên cứu quốc ra tham gia hoạt động đốt lửa
trại với thanh niên Phan Anh, qua đó tuyên truyền , vận động, cảm hóa số thanh
niên Phan Anh chưa có ý thức rõ rệt về chính trị nên đi theo Việt Minh.
Trong đêm lửa trại của thanh niên Phan Anh, có hơn 500 thanh niên cứu quốc của
Bố Trạch và Đồng Hới kéo về hòa lẫn với thanh niên Phan Anh cùng vui chơi, ca
hát, đàm đạo về con đường hiến thân cho lý tưởng đã chọn. Giữa lúc cuộc
vui đang lên đỉnh cao, đồng chí Nguyễn Thưởng cán bộ Việt Minh huyện đã đứng
lên diễn thuyết vạch trần những tội ác, âm mưu thủ đoạn của phát xít Nhật dùng
thuyết “ Đại đông Á” thuyết “ Đồng văn, đồng chủng” để ru ngủ, lôi kéo
nhân dân ta nhất là từng lớp thanh niên ủng hộ chính phủ Trần Trọng kim, tham
gia vào tổ chức thanh niên Phan Anh đi theo Nhật bán dân, hại nước, kêu gọi
thanh niên không nên mắc bẩy của Nhật, hãy đi theo Việt Minh làm cách mạng đánh
đuổi phát xít Nhật, giành độc lập đân tộc.
Sau đêm đốt lửa trại của thanh niên, các đồng chí Dương Đình Dư, Mai Trọng
Nguyên, Quách Xuân Kỳ, Phan Khắc Diến, Phan Khắc Hy, Ngô Tán, Nguyễn Thị Hường,
Nguyễn Thừa Hạ, Nguyễn Thưởng và đồng chí Phạm Thành* ( Sau năm 1945 là
Chi ủy viên chi bộ An Lão) cán bộ của Phủ ủy Quảng Trạch về họp tại nhà đồng
chí Nguyễn Thừa Hạ* ( tại thôn 4 xã Trung Trạch hiện nay). Tại cuộc họp
này, đồng chí Dương Đình Dư phổ biến chỉ thị “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta”của Trung ương và bàn các biện pháp phát triển cơ sở Việt Minh,
phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, phát động quần chúng đấu tranh và
chuẩn bị cho việc khởi nghĩa giành chính quyền. Tại cuộc họp, đồng chí Phạm
Thành đã chuyển giao các cơ sở cách mạng ở một số địa phương Bố Trạch do các
đồng chí cán bộ phủ ủy Quảng Trạch vào hoạt động xây dựng trong những năm
1943-1944. Để có một tổ chức Việt Minh lãnh đạo thống nhất trong toàn huyện,
Hội nghị bầu Ủy ban Việt Minh lâm thời do Dương Đình Dư làm chủ tịch, đồng thời
bầu đồng chí Dương Đình Dư làm đại biểu đi dự hội nghị Đảng và Việt Minh toàn
tỉnh.
Ngày 2-7-1945, một cuộc hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh được tổ chức tại chùa An
Xá ( huyện Lệ Thủy). Dự hội nghị có 13 đồng chí đảng viên đại diện cho các tổ
chức Đảng ở các phủ, huyện và thị xã Đồng Hới, dự hội nghị còn có đồng chí Đoàn
Khuê * ( đồng chí Đoàn khuê quê ở Quảng Trị, bị tù ở Ban Mê Thuột) được tổ
chức Đảng ở nhà tù Ban Mê Thuột phân công về hoạt động ở Quảng Bình. Sau khi
nghe đồng chí Trần Hữu Dực phổ biến tình hình, nhiệm vụ trước mắt và sự cấp
thiết phải chuẩn bị mọi điều kiện để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị được nghe quán triệt chỉ thị “ Nhật-Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” của Thường vụ Trung ương Đảng, bản hiệu triệu của Trung ương
Đảng, lời kêu gọi của Ủy ban thống nhất Trung Kỳ. Hội nghiddax thống nhất quyết
định: Củng cố tổ chức Đảng ở những nơi đã có, mỡ rộng và phát triển Đảng vào
các vùng trọng yếu, nhất là thị xã Đồng Hới, vùng nông thôn, trong từng lớp
công nhân. Thống nhất lực lượng Việt Minh trong toàn tỉnh. Chuẩn bị mọi điều
kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã cử ra Ban vận
động thống nhất Đảng bộ gồm 3 đồng chí,do đồng chí Đoàn Khuê làm trưởng Ban,
đồng thời ra lời kêu gọi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh đoàn kết nhất
trí, thống nhất hành động, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật, cứu nước.
Như vậy trong một thời gian dài các tổ chức cơ sở Đảng trong tỉnh ta hoạt động
độc lập, thiếu sự lãnh đạo tập trung, thống nhất nay Quảng Bình đã có cơ quan
Đảng lãnh đạo thống nhất. Việc mở hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh và bầu cơ quan
lãnh đạo cao nhất của tỉnh là một bước ngoặt lịch sử quan trọng mở ra thời kỳ
mới-thời kỳ thống nhất tổ chức, thống nhất lãnh đạo, thống nhất lực lương,
thống nhất hành động trong toàn tỉnh; tạo ra sức mạnh mới, niềm tin mới đối với
cán bộ, đảng viên và các từng lớp nhân dân từ đó vượt qua mọi gian nan, thử
thách, đứng lên cùng toàn Đảng, toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân.
Sau thành công hội nghị Đảng ở An Xá, ngày 4-7-1945 hội nghị Việt Minh,
toàn tỉnh được triệu tập họp tại trại sản xuất An Sinh ( xã Trường Xuân, Lệ
Thủy) tham dự có 30 đại biểu đại diện cho các huyện, thị trong toàn tỉnh.
Sau khi quán triệt các văn kiện của Trung ương, Xứ ủy, tổng bộ Việt Minh
và tinh thần nội dung hội nghị Đảng toàn tỉnh ở An Xá, hội nghi thảo luận, bàn
bạc và nhất trí: Thống nhất lực lượng Việt Minh trong toàn tỉnh lấy tên gọi “ Việt
Minh cô Tám” , củng cố Ban chấp hành Việt Minh các huyện, thị, giãi tán tổ
chức “ Thanh niên Phan Anh”, phát triễn mạnh các tổ chức đoàn thể
cứu quốc. Xúc tiến tự vệ chiến đấu, xây dựng lực lượng vũ trang, lập một số
chiến khu và căn cứ cách mạng, mua sắm và rèn đúc vũ khí để trang bị cho lực
lượng tự vệ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền xung phong để kịp thời phổ biến chương
trình, Điều lệ Việt Minh xuống tận các địa phương, coi trọng công tác tuyên
truyền, vận động binh lính, công chức, thương gia ở thị xã Đồng Hới và các
huyện lỵ. Đẩy mạnh phong trào chống Nhật thu thốc, chống bắt phu, bắt lính, đòi
nhà cầm quyền xuất gạo cứu đói cho nhân dân. Pát hành tín phiếu, vận động nhân
dân quyên góp để lập quỷ Việt minh. Quyết định xuất bản tờ báo “ Vì Nước” làm
cơ quan ngôn luận của “ Việt Minh cô Tám”.
Hội nghị bầu Ban chấp hành Việt Minh tỉnh gồm có 7 đồng chí, do đồng chí Nguyễn
Đồng ( tức Đồng Sỹ Nguyên) làm chủ nhiệm.
Sau thành công của hai hội nghị cán bộ Đảng và cán bộ Việt Minh toàn tỉnh, đánh
dấu những mốc lịch sử quan trọng của phong trào cách mạng ở Quảng Bình trong
tiến trình phát triển cách mạng nước ta. Chính điều đó có ý nghĩa quyết định
trực tiếp tạo ra những chuyển biến về chất trong việc vận động, tập hợp lực
lượng quần chúng cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương.
Để hổ trợ cho lực lượng đấu tranh chính trị, thực hiện chủ trương của hội nghị
cán bộ Đảng ở An Xá và hội nghị cán bộ Việt Minh ở An Sinh, ngày 4-7-1945 lực
lượng vũ trang nhân dân Quảng Bình chính thức được thành lập. Đây là bước phát
triển tất yếu của phong trào cách mạng ở Quảng Bình, là nhân tố không thể thiếu
của bạo lực cách mạng trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 và trong suốt
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, quê hương.
Thực hiện chủ trương của hội nghị Việt Minh tỉnh, trung tuần tháng 7-1945, Ủy
ban mặt trận Việt Minh lâm thời huyện triệu tập họp tại tại thôn võ Thuận ( xã
Tây Trạch) nghe đồng chí Dương Đình Dư thông báo chủ trương của hội nghị
cán bô Đảng và hội nghị cán bộ Việt Minh toàn tỉnh. Hội nghị thảo luận, bàn bạc
thống nhất đề ra chủ trương: Đẩy mạnh tuyên truyền xung phong, phổ biến chương
trình, Điều lệ Việt Minh rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Tổ chức tự vệ
chiến đấu ở các địa phương. Phát triển các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt
Minh. Đẩy mạnh phong trào chống Nhật, xây dựng lực lượng chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị bầu Ban chấp hành Việt Minh huyện, do đồng chí Dương Đình Dư làm chủ
tịch.
Dưới sự lãnh đạo thống nhất của của Mặt trận Việt Minh từ Tỉnh xuống Huyện,
ngay sau hội nghị Mặt trận Việt Minh huyện, theo sự phân công các đồng chí cán
bộ Việt Minh huyện đi về các địa phương cùng các đồng chí cán bộ Việt Minh
thôn, xóm thống nhất lực lượng Việt Minh, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận
động quần chúng. Các đội tuyên truyền xung phong của huyện được thành lập. Các
đội tự vệ chiến đấu ở các làng, xã được tổ chức. Phong trào luyện tập quân sự
diễn ra sôi nỗi khắp nơi, nhất là trong lực lượng thanh niên cứu quốc. Nhân dân
quyên góp lương thực, thực phẩm, vũ khí để xây dựng các đội tự vệ chiến đấu và
các đội tuyên truyề xung phong. Nhiều cuộc mít tin được tổ chức thu hút mọi
tầng lớp nhân dân tham gia.
Quần chúng được phát động, phong trào cách mạng trong các địa phương phát triển
ngày càng mạnh. Các làng Hoàn Lão, Phúc Tự, Lý Hòa, Thanh Khê, Ba Đề, Cao Lao,
Phú Kinh, Phú Hữu, Cự Nẫm, Khương Hà, Hòa Duyệt, Vạn Lộc đã thành lập được Mặt
trận Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Việt minh, nhiều cuộc Mặt trận Việt
Minh vận động phụ nữ không basb bạc trắng, đồng , nhôm vụ cho Nhật, nhân dân
Hoàn Phúc, Vạn Lộc, Hòa Duyệt đấu tranh chống lại việc kiểm kê lúa gạo, đóng
thóc tạ, mua gom thóc gạo của bọn tay sai phát xít Nhật...
Nhìn chung chỉ sau một thời gian ngắn từ khi tiếp nhận chỉ thị “ Nhật-Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” đến đầu tháng 8-1945, công cuộc
chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Bố Trạch đã được tiến hành
tích cực, khẩn trương, chu đáo, toàn diện cả về tổ chức bộ máy lãnh đạo, lực
lượng đấu tranh chính trị, lực lượng vũ trang, sẵn sàng cho một cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền khi thời cơ cách mạng xuất hiện.
II- LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA
PHƯƠNG LÀM NÒNG CỐT TRONG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH
MẠNG VÀ TÍCH CỰC CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN.
Ngày 16-4-1945, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tiến công lớn vào Beclin-sào huyệt
cuối cùng của Đức quốc xã, chỉ trong vòng hai tuần lễ, 45.000 quân phát xít Đức
bị tiêu diệt. Ngày 30-4-1945, lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô phấp phới
tung bay trên nốc nhà quốc hội Đức. Ngày 9-5-1945, Đức ký hiệp ước đầu hàng
Liên Xô và phê đồng minh không điều kiện. Lò lửa chiến tranh thế giới thứ hai
bị dật tắt ở châu Âu, tại châu Á giờ tận số của phát xít Nhật cũng sắp điểm.
Thừa thắng xông tới, ngày 9-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ
trong vòng một tuần lễ, quân đội Xô Viết anh hùng đã tiêu diệt hoàn toàn đội
quân Quan Đông gồm hơn 1 triệu tên, buộc chính phủ Nhật phải ký hiệp định đầu
hàng không điều kiện.
Sự thất bại của đạo quân Quan Đông đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộ quân Nhật ở
Đông Dương. Sau một thời gian dài làm mưa, làm gió bọn Nhật ở Đông Dương hoang
mang, rệu rã như rắn mất đầu, tại Việt Nam chính phủ tay sai Trần Trọng kim
hoàn toàn bị tê liệt từ Trung ương đến làng xã.
Trước thời cơ ngàn năm có một đã xuất hiện, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp đêm 13-8-1945 tại Tân Trào. Hội nghị nhận định “ Những điều kiện
khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi...quân Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng
ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn việt gian thân Nhật
hoảng sợ, toàn dân tộc ta đang sôi nổi đợi chờ giờ khởi nghĩa giành độc lập”*(
NQ toàn quốc hội nghị Đảng cộng sản Đông Dương- văn kiện Đảng 1930-1945- tậ
III- Ban NCLSĐ TW 1977, tr413).
Ngày 17-8-1945, tại thị xã Đồng Hới một hội nghị cán bộ Việt Minh của tỉnh được
triệu tập để tiếp nhận lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương do đồng chí Tố Hữu
vào truyền đạt*( tại hội nghị này, đại biểu huyện Bố Trạch có đồng chí Đòan
Bá Thừa tham dự). Sau khi tiếp nhận lệnh tổng khởi nghĩa, hội nghị đã
thảo luận, bàn bạc kế hoạch, phương pháp tổ chức thực hiện và đi đến thống
nhất:
-Lấy ngày 23-8-1945 làm ngày tổng khởi nghĩa chung của toàn tỉnh.
-Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Đồng Hới và các Phủ, Huyện trong cùng
một ngày, cùng một lúc sau đó giãi quyết hệ thống chính quyền tổng, xã
-Huy đông các từng lớp nhân dân có lực lương vũ trang và các đội tuyên truyền
xung phong làn nồng cốt, khi đi khởi nghĩa quần chúng mang theo cờ đỏ sao vàng,
băng khẩu hiệu và vũ khí tự tạo.
Đối với quân Nhật, Mặt trận Việt Minh có nhiệm vụ giữi tối hậu thư buộc chúng
không được can thiệp vào công việc của Việt Minh, đồng thời bố trí lực lương tự
vệ theo giỏi chặt chẽ các hoạt động của chúng, nếu có hành động chống đối, cản
trở thì kịp thời trừng trị. Đối với ngụy quân, ngụy quyền, Mặt trận Việt Minh
cử người đến yêu cầu chúng phải giao lại chính quyền, vũ khí cho Việt Minh.
Thực hiện kế hoạch của Việt Minh tỉnh, tối ngày 21-8-1945, tại ga Bố Trạch ( ga
Kẻ Rấy) Mặt trận Việt Minh huyện triệu tập cuộc họp cán bộ Việt Minh toàn huyện
để nghe đồng chí Đoàn Bá Thừa * ( đồng chí Đoàn Bá Thừa, quê xã Triệu
Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) truyền đạt kế hoạch và lệnh
tổng khởi nghĩa của tỉnh. Hội nghị đã bàn bạc, thống nhất kế hoạch hành động:
Tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện đường Hoàn Lão và ở Thanh Khê.
Về lực lượng khởi nghĩa, huy động mọi từng lớp nhân dân tham gia, thành lập các
đội tự vệ tập trung, lấy lực lượng tự vệ và các đội tuyên truyền xung phong làm
nồng cốt.* (.........) Đối với lực lượng ngụy quyền, ngụy quân ở tổng, xã,
thôn, Ủy ban khởi nghĩa các địa phương cử người gặp trực tiếp yêu cầu họ chuyển
giao chính quyền cho Việt Minh.
Để nhanh chóng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hoàn Lão trung tâm của
huyện, hội nghị giao nhiệm vụ cho lực lượng khởi nghĩa khu vực Hoàn Lão phải
chiếm được công đường, trại lính, thu toàn bộ hồ sơ, ấn triện ( con dấu),chiếm
khu nhà ở của các gia đình quan lại bắt toàn bộ những người làm việc trong
chính quyền địch.
Lực lượng khởi nghĩa ở Thanh Khê gồm có tự vệ và nhân dân các làng Bồ Khê,
Thanh Hà, Ba Đề, Cao Lao Hạ, Cao Lao Thượng, Phú Kinh, Phú Hữu... đặt dưới sự
chỉ đạo khởi nghĩa vùng Bắc, do đồng chí Trần Quyền phụ trách chung đánh chiếm
sở thương chánh, sở kiểm lâm, sở muối, và khu nhà đoan.
Hội nghị quyết định phát lệnh khởi nghĩa toàn huyện vào lúc 5 giờ sang ngày
23-8-1945. Hội nghị bầu Ủy ban khởi nghĩa và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời
do đồng chí Dương Đình Dư làm chủ tịch.
Ngay sau Hội nghị, cán bộ Việt Minh theo kế hoạch lập tức lên đường về các địa
phương với một tinh thần hết sức phấn khởi và cũng rất khẩn trương nhanh
chóng bắt tay vào công tác chuẩn bị khởi nghĩa. Thực hiện quyết định và kế
hoạch của Ủy ban khởi nghĩa huyện, để chuẩn bị tốt cho việc khởi nghĩa thắng
lợi có nhiều vấn đề đặt ra cấp thiết, trong đó vấn đề lớn nhất là thành lập lực
lượng vũ trang cách mạng. Vì vậy, vấn đề cấp bách lúc này ở các địa phương là
phải xây dựng tổ, đội tự vệ tập trung. Vũ khí trang bị cho các đội tự vệ
chủ yếu là vũ khí thô sơ giáo mác, đại đao, mã tấu..Để làm nồng cốt cho các đội
tự vệ , Ủy ban khởi nghĩa tỉnh tăng cường cho Bố Trạch 5 nghĩa binh và 9 khẩu
súng. Công tác luyện tập cho tự vệ do một số cán bộ Việt Minh có biết ít
nhiều về kiến thức quân sự phối hợp với số nghĩa binh do tỉnh bộ Việt Minh tăng
cường cùng tham gia hướng dẫn tập luyện. Nhờ gấp rút chuẩn bị, nên chỉ sau hơn
một ngày tuyển chọn, các địa phương đã thành lập được các tổ, đội tự vệ và đi
vào tập luyện. Đến đêm 22-8-1945, đội ngũ các đội tự vệ đã chỉnh tề, tinh thần
phấn khởi, đội lệnh sẵn sàng làm nhiệm vụ. Các đội tuyên truyền xung phong bám
sát thôn, xóm, đi sâu vào quần chúng tuyên truyền, giãi thích chương trình công
tác, Điều lệ Việt Minh, vận động kêu gọi nhân dân đoàn kết xung quanh Mặt trận
Việt Minh, hăng hái tham gia vào các phong trào do Việt Minh phát động, đồng
lòng cùng nhau đứng lên chống Nhật, cứu nước.
Mặc dù hết sức bí mật, nhưng tin khởi nghĩa vẫn nhanh chóng được lan truyền
trong nhân dân. Các hội phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu
quốc...vận đông hội viên đóng góp tiền bạc, lương thực, thực phẩm phục vụ lực
lượng khởi nghĩa, nhiều chị em phụ nử các xã thức trắng đêm để may cờ. Tại các
địa phương, lực lượng tự vệ triển khai chiếm giữ các vị trí quan trọng ở ga Bố
Trạch, Thanh Khê, cầu Bùng, cầu Chánh Hòa....tuần tra dọc sông son. Khắp nơi
trong làng, ngoài ngõ một không khí bừ bừng khí thế cách mạng đang chuyển
mình mạnh mẽ. Một cuộc đổi đời thật sự khong phải trong ước mơ mà sắp diễn ra
thật sự ngay trong đời sống hiện tại.
Tối ngày 22-8-1945, tại khu vực huyện đường Hoàn Lão, lực lượng khởi
nghĩa các địa phương Hoàn Lão, Hòa Duyệt, Võ Thuận, Hoàn Phúc, Vạn Lộc đi đấu
là các đội tự vệ kéo về tập kết ở nhà ga Bố Trạch (ga Kẻ Rấy), tại hướng Bắc,
đội tự vệ làng Lý Hòa gồm 16 hội viên do đồng chí Phan Khắc Diến chỉ huy
đã nhanh chóng vượt gần chục cây số lên tập kết tại khu nghĩa địa làng
Hoàn Lão chờ lệnh. Tại khu vực khởi nghĩa phía Bắc, các đội tự vệ và lực lương
khởi nghĩa các làng Bồ khê phường, Thanh Hà, Bồ Khê... xã tập kết về xóm Lim,
tự vệ và lực lượng khởi nghĩa các làng Ba Đề, Thanh Ba, Cao Lao Hạ, Cao Lao
Thượng, cao Lao Trung, Phú Kinh, Phú Hữu...tập tung về tại bến đò Thanh Ba. Tại
bến đò ngang Thanh Ba hàng chục chiếc đò, thuyền câu được Ủy ban khởi nghĩa
điều động về chuẩn bị sẵn sàng chở lực lượng khởi nghĩa qua sông sang Thanh
Khê.
Trước khí thế cách mạng, bọn ngụy quyền từ huyện đến cơ sở hoang mang, lo sợ
tin thần lung lay tận gốc rể, hầu hết chánh, phó tổng, lý tưởng, hương lý bỏ
việc, đem đồng triện, hồ sơ giao nộp cho Ủy ban khởi nghĩa. Bọn lính lệ ở
huyện đường Hoàn Lão và đồn Thanh Khê án binh bất động không dám phản ứng, nằm
im trước khí thế cách mạng của quần chúng.
Trong đêm 22-8-1945, trong lúc
nhân dân toàn huyện đang tập trung lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, một tiểu đội
tự vệ Bố Trạch do đồng chí Lưu Đức Huân* ( cán bộ lão thành cách mạng, quê
ở xã Hạ Trạch) chỉ huy đã hàn quân cấp tốc vượt gần 15 km đường bộ từ Hoàn Lão
vào Đồng Hới tham gia cùng nhân dân thị xã khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh.
Đúng 1 giờ sáng ngày 23-8-1945, lệnh khởi nghĩa được ban hành. Tại Hoàn Lão,
lực lượng khởi nghĩa nhanh chóng rời khỏi địa điểm tập kết theo 4 hướng tiến
thẳng về bao vây huyện đường, theo sự phân công tự vệ trên các hướng nhanh
chóng bao vây khu nhà làm việc, khu lính lệ, khu gia đình quan lại...Bọ địch bị
bao vây bốn phía, hoảng hốt lo sợ, nhiều tên lợi dụng lúc lộn xộn trà trộn vào
đoàn người khởi nghĩa chạy vào trốn trong nhà dân. Tại khu lính lệ, được cơ sở
ta chỉ dẫn, tự vệ ập vào thu gọn 7 khẩu súng. Chỉ trong một thời gian ngắn, tự
vệ và lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ huyện đường Hoàn Lão, bắt tri huyện Tôn
Thất Chiêm Sử và toàn bộ bọn quan lại, lính lệ, thu toàn bộ hồ sơ, giấy tờ,
đồng triện.
Tại khu vực Thanh Khê, sau khi tiếp nhận lệnh khởi nghĩa, tự vệ và lực lượng
khởi nghĩa nhanh chóng xống đò vượt qua sông Thanh Ba sang phối hợp với lực
lượng khởi nghĩa ở Thanh Khê bao vây, đánh chiếm khu nhà đoan, sở thương chánh,
sở muối, sở kiểm lâm, bắt gọn toàn bộ bọn quan lại, lính lệ làm việc tại Thanh
Khê.
Rạng sáng ngày 23-8-1945, tin khởi nghĩa thắng lợi ở Hoàn Lão và Thanh Khê về
đến các địa phương, nhân dân vô cùng phấn khởi. Ủy ban khởi nghĩa các địa
phương nhanh chóng tổ chức lực lượng kéo đến bao vây công đường, trước khí thế
cách mạng của quần chúng, bọn quan lại chánh, phó tổng, lý trưởng, hương lý
không dám kháng cự nhanh chóng giao nộp đồng triện, hồ sơ cho lực lượng khởi
nghĩa.
Như vậy cuộc khởi nghĩa ở Huyện và các địa phương diễn ra đồng loạt, nhanh gọn,
đúng thời gian và kiên quyết đã giành được thắng lợi to lớn, chính quyền đã
thuộc về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hố Chí Minh cùng
với lực lượng đấu tranh chính trị, lực lượng vũ trang Bố Trạch tuy mới hình
thành nhưng đã tỏ rõ vai trò nồng cốt, là chổ dựa vững chắc cho lực lượng chính
trị trong cuộc khởi nghĩa giàng chính quyền tháng Tám năm 1945 thắng lợi
Căn cứ vào Nghị quyết của Trung ương, sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Ủy ban
khởi nghĩa và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp nhanh chóng
chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng, đảm nhiệm mọi công việc của nhà nước.
Sáng ngày 23-8-1945, trước hàng trăm người dân từ các địa phương tập trung về
sân vận động Hoàn Lão đón mừng thắng lợi, Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Bố
Trạch do đồng chí Dương Đình Dư làm chủ tịch ra tuyên bố: Từ đây xóa bỏ bộ máy
chính quyền của địch, thực hiện chính sách của Mặt trận Việt Minh và của chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mọi người dân đoàn kết cùng nhau góp sức
bảo vệ nền độc lập dân tộc, ổn định trật tự trị an xã hội, cảnh giác sẳn sàng
chiến đấu đánh bại các âm mưu thủ đoạn phá hoại của kẻ địch. Đẩy mạnh tăng gia,
sản xuất, chống đói, giúp đỡ trương trợ nhau trong cuộc sống. Thủ tiêu mọi mọi
tàn dư của chế độ củ, tôn trọng tự do tín ngưỡng, bình đẳng, phát triển nền
giáo dục nhân dân, xây dựng nếp sống văn hóa mới. Đối với tri huyện Tôn Thất
Chiêm Sử và những người trước đây làm việc cho Pháp, chiếu theo chính sách
khoan hồng của chính Phủ, nay trả tự do cho về quê hương..
Trong đêm 22-8-1945, chấp hành chủ trương của Mặt trận Việt Minh tỉnh, một tiểu
đội tự vệ Bố Trạch do đồng chí Lưu Đức Huân chỉ huy đã cấp tốc hành quân vượt
gần 20 km vào tham gia cùng nhân dân thị xã Đồng Hới khởi nghĩa giành chính
quyền.
Sau khi giành được chính quyền, các đội tự vệ tham gia khởi nghĩa trở về địa
phương cùng quần chúng nhân dân làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác, bảo đảm an
ninh trật tự, bảo vệ công sở nơi là việc của chính quyền cách mạng và sẵn sàng
trấn áp bon phản cách mạng. Vận động nhân dân than gia các hoạt động đoàn thể
cứu quốc, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cứu đói...
Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, vệnh mệnh đất nước ta như
ngàn cân treo đầu sợi tóc. Nạn đói, nạn dốt hoành hành, thù trong, giạc
ngoài cấu kết với nhau uy hiếp khắp nơi trong Nam, ngoài Bắc. Ở phía Bắc, 4
quân đoàn quân Tưởng Giới Thạch với gần 20 vạn quân, do tướng Lư Hán chỉ huy
vượt biên giới, lũ lượt kéo vào Hà Nội với danh nghĩa quân đồng minh vào giãi
giáp quân Nhật, nhưng thực chất thực hiện âm mưu “...tiêu diệt Đảng ta, phá
tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập
một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng” * ( Hồ Chí Minh: báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ II, tháng 2/1951- tập1 NxbSt, H
1980, tr471). Đi theo chân quân Tưởng là một lũ tay sai người Việt trong
các tổ chức Việt Nam quốc dân đảng ( Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh
hội (Việt cách). Ở Nam Bộ, quân Anh cũng mượn danh nghĩa quân đồng minh
vào tước vũ khí quân Nhật, đã hậu thuẩn cho quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, đánh
chiếm thành phố và các tỉnh xung quanh mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta
lần thứ hai. Lúc này trên đất nước ta còn có 6 vạn lính Nhật chờ được
giải giáp, trong đó có một nữa quân lính thực hiện lệnh của quân Anh, đánh vào
lực lượng vũ trang của ta, dọn chổ cho quân Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam
nước ta. Trong lúc đó, nước cộng hòa non trẻ mới ra đời, nền kinh tế taì chính
bị kiệt quệ, hàng triệu người dân mù chử lại phải chịu hậu quả nạn đói
cuối năm 1944 đầu năm 1945 hết sức nặng nề. Hệ thống tổ chức Đảng nhiều nơi
chưa được củng cố, chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập chưa có kinh
nghiệm quản lý nhà nước. Đặc biệt lực lượng vũ trang chủ yếu lực lượng tự vệ
lại quá non yếu về số lượng đội viên và chất lượng chiến đấu, thiếu cán bộ,
thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm chiến đấu và vận động quần chúng.
Nằm trong bối cảnh chung của đất nước, ngày 6-9-1945 quân Nhật ở huyện Bố Trach
rút vào thị xã Đồng Hới chuẩn bị về nước, thay vào đó một đại đội quân Tưởng
kéo vào Quảng Bình. Đây là một đội quân ô hợp, đói rách, vô tổ chức, chúng đi
đến đâu quấy phá, cướp bóc đến đó. Tại các ga Ngân Sơn, Cồn Tro, Thọ Lộc, Bố
Trạch, Phúc Tự quân Tưởng giỡ đủ trò khiêu khích, cướp bóc làm cho nhân dân ta
vô cùng điêu đứng. Chúng tung tiền quan kim mua vét hàng hóa, thóc gạo, thực
phẩm gây rối loạn trên thị trường, làm đảo lộn cuộc sống thường ngày của hàng
trăm gia đình. Chúng ngang nhiên cướp giật tài sản của nhân dân, bắt bớ
cản trở hoạt động của cán bộ của ta trong lúc làm nhiệm vụ, gây nên cảnh
xáo trộn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Núp dưới bóng quân Tưởng, bọn phản động trong tổ chức Việt cách, Việt
quốc và bọn phản động đội lốt tôn giáo cấu kết với địa chủ, cường hào phản động
ở một số địa phương Hoàn Lão, Lý Hòa, Thanh Khê xây dựng cơ sở trong một
số học sinh, trí thức, công chức chế độ củ còn đang mơ hồ về thời cuộc.
Chúng dùng báo “ Nhật Lệ” làm phương tiện tuyên truyền, tại các vùng có đông
đồng bào theo đạo, thành lập các “ Liên tôn chống cộng” để tập hợp lực lượng
tín đồ chống lại chính quyền nhân dân.
Nhận rõ âm mưu và hành động của quân Tưởng và bọn phản động, thực hiện chủ
trương của Ban vận động thống nhất Đảng bộ tỉnh và Mặt trận Việt Minh Cô Tám;
Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Bố Trạch phát động quần
chúng theo giõi, giám sát các hoạt động của quân Tưởng và bọn tay sai. Các đội
tự vệ cử các trinh sát về các thôn, nơi có các hoạt động của địch để nắm tình
hình và cảnh cáo những người có hành động chống lại chính quyền cách mạng.
Về kinh tế, hậu quả nạn đói đầu năm 1945 vẫn còn tiếp tục đe dọa nhiều gia
đình...hàng ngàn héc ta ruộng đất canh tác bị bỏ hoang hóa do bão lũ, do thiếu
sức kéo, thiếu lao động, thiếu giống...Về tài chính cũng gặp khó khăn lớn, ngân
quỹ của Huyện chỉ có 2000 đồng bạc Đông Dương rách nát.
Đời sống xã hội làng xã chịu nhiều tác động và sự xáo trộn trong nhận thức, nếp
ăn, nếp nghĩ, việc làm do chế độ thực dân, phong kiến đem lại, trong đó nặng nề
nhất là hơn 90% nhân dân sống trong cảnh mù chử.
Trước tình hình trên, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ
chức Đảng địa phương, công tác quản lý nhà nước của chính quyền nhân dân, ngày
31-8-1945, Hội nghị đại biểu Đảng 18 tỉnh Trung Bộ họp tại Huế đã quyết định
thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương ở Trung Bộ, bầu Ban cấp hành Xứ ủy
do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư. Hội nghị đề
ra những nhiệm vụ:
Gấp rút thành lập cấp ủy
các cấp, trước hết là các tỉnh ủy đến huyện ủy, cấp cơ sở và tương đương.
Ra sức kiện toàn Đảng
những nơi đã có tổ chức đảng, phát triển đảng những nơi chưa có, đưa ra khỏi
đảng những phần tử cơ hội.
Nhanh chóng phổ biến các
nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến từng cơ sở và
đảng viên.
Tích cực bồi dưỡng đào
tạo cán bộ, đảng viên bằng cách mở các lớp đào tạo từ Xứ ủy đến các huyện.
Lãnh đạo các tổ chức
quần chúng và lãnh đạo chính quyền.(1- Bước qua đầu thù- Hồi ký của đồng chí
Trần Hữu Dực NXB chính trị quốc gia, H 1996, tr 251
Trong những khó khăn
chung của các tỉnh Trung Bộ, đối với tỉnh Quảng Bình còn có những khó khăn
riêng mang tính đặc thù đó là Đảng bộ tỉnh chưa thành lập, Ban vận động thành
lập Đảng chỉ có ba đồng chí, toàn tỉnh số lượng đảng viên đã ít lại phân bố
không đều, chính quyền tuy đã đã được thành lập từ tỉnh, huyện đến tận cơ sở
làng, xã nhưng chưa đủ mạnh cả về cơ cấu tổ chức đến đội ngũ cán bộ, vừa yếu về
năng lực vừa thiếu kinh nghiệm quản lý nhà nước. Các đơàn thể quần chúng trong
Mặt trận Việt Minh chưa được kiện toàn...Về quân sự, tuy ở tỉnh có quân giãi
phóng, nhưng ở huyện, thị chưa có lực lượng vũ trang tập trung .
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng, củng cố và bảo
vệ chính quyền cách mạng. Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, ngày 7-10-1945,
Ban vận động thống nhất Đảng tỉnh Quảng Bình họp Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại
thị xã Đồng Hới để quán triệt chủ trương của Xứ ủy, bàn biện pháp thực hiện 6
nhiệm vụ cấp bách do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong phiên họp đầu tiên ngày
3-9-1945 của chính phủ. Hội nghị đã quyết định một số nhiệm vụ quan trọng: xây
dựng Đảng, củng cố chính quyền nhân dân, Mặt trận Việt Minh, phát triển các
đoàn thể quần chúng nhất là việc xây dựng lực lượng vũ trang... thành lập ngay
các Huyện ủy, Thị ủy nơi chưa thành lập để kịp thời lãnh đạo công cuộc xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng và chuẩn bị kháng chiến chống Pháp ở địa
phương...Đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, Hội nghị chủ
trương xây dựng mỗi huyện, thị một đại đội tự vệ chiến đấu tập trung, mỗi xã
một trung đội; phát động phong trào ủng hộ quỹ nuôi quân, rèn sắm vũ khí, tổ
chức huấn luyện quân sự, gữi quân Nam tiến.
Để tập trung củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ
chức đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị các cấp từ tỉnh đến các địa
phương cơ sở, Tỉnh ủy đã phân công các đồng chí tỉnh ủy viên về các huyện cùng
cán bộ, đảng viên sở tại tập trung triễn khai chủ trương của Tỉnh ủy.
Bố Trạch là một huyện giàu truyền thống cách mạng, ngay sau khi Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời được 2 tháng vào ngày 22-4-1930, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên
của Huyện được thành lập. Song trong thực tế từ tháng 5-1931 đến đầu năm 1945,
tổ chức Đảng ở Bố Trạch bị địch theo giõi, khủng bố, đảng viên bị địch bắt kết
án tù đày. Hoạt động của các đồng chí đảng viên (sau khi mãn hạn tù) chủ yếu
đơn tuyến; tổ chức Đảng trong một thời gian dài không được củng cố, vai trò
lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với phong trào cách mạng địa phương chỉ tập trung
vào cá nhân một số đảng viên và cán bộ Việt Minh. Trước tình hình đó ngay sau
Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh, Tỉnh ủy lâm thời đã cử đồng chí Hồng Xích Tâm
(1- đồng chí Hồng Xích Tâm tên thật là Dương Đình Đệ, ở xã Xuân Thủy huyện
LệThủy, tỉnh Quảng Bình.)tỉnh ủy viên lâm thời về Bố Trạch trực tiếp chỉ đạo
củng cố lại tổ chức Đảng, và xây dựng chính quyền, các đoàn thể quần chúng. Tại
Bố Trạch, đồng chí Hồng Xích Tâm đã trực tiếp cùng các đồng chí
Dương Đình Dư, Quách Tuân, Đoàn Bá Thừa, Nguyễn Thưỡng tập trung củ soát
lại đội ngũ cán bộ Việt Minh và đã chọn lựa được các anh Quách Xuân Kỳ, Phan
Khắc Hy, Mai Trọng Nguyên, Đặng Gia Tất, Trần Quyền, Nguyễn Thị Hường, Phan
Khắc Diến, Nguyễn Thừa Hạ... những quần chúng trung kiên, hăng hái trong cuộc
Tổng khởi nghĩa và những ngày đầu xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng
để kết nạp vào Đảng. Đây là lượng cán bộ nồng cốt chuẩn bị tiến tới tổ chức Đại
hội củng cố lại tổ chức Đảng của Huyện.
Cuối tháng 10-1945, dưới sự chủ trì của đồng chí Hồng Xích Tâm, hội nghị Đảng
viên toàn Huyện được triệu tập họp tại trụ sở Mặt trận Việt Minh huyện ( ở Hoàn
Lão). Về dự Hội nghị có 15 đảng viên, trong đó có đồng chí Nguyễn Thành (Nguyễn
Thại) cán bộ đảng, Phủ ủy Quảng Trạch được Tỉnh ủy lâm thời giới thiệu vào sinh
hoạt và trực tiếp tham gia cấp ủy* 1( theo bản tự thuật của đồng chí
Nguyễn Thành năm 1985 bản viết tay lưu trử tại Ban Tuyên giáo huyện ủy Bố
Trạch). Hội nghị đã thảo luận, đánh giá lại phong trào cách mạng trước,
trong và sau ngày Khởi nghĩa giành chính quyền, củ soát lại đội ngũ cán
bộ, đảng viên thừa nhận đảng viên chính thức, quyết định kết nạp lại các đồng
chí đảng viên từng hoạt động trong chi bộ ga “ Kẻ Rấy” nhưng do bị địch khủng
bố mất liên lạc với tổ chức Đảng cấp trên nhưng vẫn giữ được bản chất
giai cấp công nhân, tiếp tục hoạt động trong điều kiện bí mật, Hội nghị chu
trương củng cố lại chi bộ Đảng của Huyện với tên gọi mới Chi bộ Đảng An Lão,
xem đây là tổ chức Đảng cao nhất của Huyện. Hội nghị quyết định một số nhiệm vụ
quan trọng: Tập trung phát triển đảng viên, thành lập các chi bộ Đảng cơ sở,
xây dựng củng cố chính quyền, các tổ chức đoàn thể quần chúng ở thôn, xã và
nhất là xây dựng lực lượng vũ trang làm chổ dựa cho chính quyền cách mạng; Phát
động nhân dân hưởng ứng tích cực lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chống ba
thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.... Hội nghị đã bầu Ban chấp hành
của Chi bộ Đảng huyện gồm 3 đồng chí: Hồng Xích Tâm, Dương Đình Dư,
Nguyễn Thành, do đồng chí Hồng Xích Tâm làm bí thư Chi bộ.
Để nhanh chóng xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở nhằm đảm bảo vai trò lãnh
đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền và các
thành quả cách mạng, chi ủy huyện đã phân công đảng viên về các làng, xã tập
trung xây dựng, củng cố chính quyền và các tổ chức quần chúng, thông qua phong
trào cách mạng phát hiện những quần chúng tích cực, trung kiên giới thiệu vào
Đảng. Chính từ đó nhiều quần chúng tốt được kết nạp vào Đảng, ngay sau Hội nghị
đảng viên toàn Huyện, một số chi bộ Đảng cơ sở được thành lập như chi bộ Đảng
Quý Hòa ( 8-1946). Mặc dù số lượng đảng viên còn quá ít, chất lượng chưa cao,
số tổ chức Đảng cơ sở chưa nhiều. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các địa
phương đã trở thành lực lượng nồng cốt, đi đầu trong mọi phong trào, gương mẫu
trong công tác, việc làm đã trở thành hạt nhân lãnh đạo chính quyền và phong
trào cách mạng và là tấm gương sáng cho biết bao quần chúng noi
theo.
Sau khi giành được chính quyền các đội tự vệ của các làng, xã tiếp tục làm
nhiệm vụ canh gác, tuần tra, bảo đảm an ninh trật tự, bảo vệ công sở và trấn áp
những phần tử ngoan cố có hành động, việc làm chống lại cách mạng, phá hoại
công cuộc xây dựng cuộc sống mới.
Trong điều kiện tổ chức Đảng cấp huyện vừa được củng cố, để đảm bảo tăng cường
vai trò lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Chi bộ Đảng đối với lực lượng vũ
trang địa phương trong tình mới; Chi bộ An Lão đã thống nhất giao cho đồng chí
Hồng Xích Tâm bí thư chi bộ phụ trách công tác quân sự
Tháng 9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị mở rộng giải phóng quân, đổi tên
gọi thành vệ quốc đoàn. Lực lượng bộ đội tập trung được biên chế thành các chi
đội ( tương đương cấp trung đoàn), mỗi tỉnh có một chi đội. Sau khi thành lập
chi đội Lê Trực- chi đội giãi phóng quân dầu tiên của tỉnh được kiện toàn và
củng cố về tổ chức, lực lượng quân số, trang bị vũ khí...chi đội có 4 đại đội
nam giới và một trung đội nữ. Ở mỗi huyện, thị tùy theo tình hình cụ thể thành
lập một đại đội hoặc một trung đội tự vệ chiến đấu tập trung, mỗi xã có một
trung đội hay một tiểu đội.
Trong quá trình chuẩn bị cũng như khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra
và sau khi giành được chính quyền, lực lượng vũ trang tập trung từ Tỉnh
đến các địa phương, việc tổ chức về lực lượng, biên chế quân số, vũ khí trang
bị .. đặt dưới sự lãnh dạo trực tiếp của cấp ủy địa phương; người chỉ huy do
cấp ủy đảng cử ra. Tại Bố Trạch trước, trong và sau ngày giành được chính
quyền, hệ thống tổ chức đảng từ huyện đến làng xã chưa hình thành, do đó, việc
phụ trách công tác quân sự do một ủy viên là thành viên của Ủy ban nhân dân
cách mạng đảm trách. Đầu năm 1946, để đảm bảo sự thống nhất trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện
chủ trương của chính phủ và sự chỉ đạo của tỉnh Đảng bộ và Ủy ban nhân dân cách
mạng tỉnh, các Ban Dân quân trực thuộc Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp từ
tỉnh, huyện đến các làng, xã được thành lập. Ban Dân quân được đặt dưới sự lãnh
đạo tổ Chi bộ Đảng, người phụ trách chỉ huy là đồng chí đứng đầu cấp ủy. Tại
huyện Bố Trạch, Ban Dân quân của huyện được thành lập đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Chi ủy Chi bộ An Lão, do đồng chí Bí thư Chi bộ phụ trách;
cán bộ, đảng viên Ban Dân quân tham gia sinh hoạt tại cơ quan Huyện ủy.( *1
–từ sau cách mạng tháng 8 đến đầu cuối năm 1946,cán bộ, đàng viên khối cơ quan
cấp huyện đều sinh hoạt tại cơ quan Huyện ủy). Đối với các làng xã, toàn
Huyện chỉ có làng Trung Nẫm, Lý Hòa, Thanh Khê có chi bộ Đảng, Ban Dân quân
chịu sự lãnh đạo của chi ủy, người phụ trách là đồng chí đứng đầu cấp ủy; các
địa phương còn lại chưa có tổ chức Đảng thì Ban Dân quân trực thuộc Ủy ban nhân
dân cách mạng và do một ủy viên Ủy ban phụ trách.
Nhiệm vụ của Ban Dân quân chủ yếu tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào
các hoạt động bảo vệ trật tự an ninh thôn xóm, phát hiện những người lạ mặt,
các hoạt động chống đối cách mạng của phần tử phản động.. xây dựng kế hoạch, tổ
chức tự vệ huấn luyện quân sự và thông qua phong trào cách mạng tuyển chọn
những quần chúng thanh niên tích cực tham gia lực lượng tự vệ, dân quân, du
kích. Đối với lực lượng tự vệ có nhiệm vụ luyện tập quân sự kết hợp với việc
tuần tra bảo vệ công sở nơi làm việc của Ủy ban nhân dân cách mạng, các cơ sở
kinh tế, văn hóa, quân sự, đầu mối giao thông...giữ gìn trật tự trị an thôn,
xóm, bảo vệ các thành quả cách mạng.
Công tác quân sự là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mọi cuộc cách mạng
xã hội. Trong cuộc cách mạng “ Dân tộc, dân chủ” do Đảng ta lãnh đạo công tác
quân sự và nhiệm vụ xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng càng hết
sức quan trọng. Chính vì vậy từ năm 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trực tiếp có
chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giãi phóng quân do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chỉ huy. Tại Quảng Bình, trong quá trình chuẩn bị cho tổng khởi
nghĩa tháng 8-1945, công tác quân sự và xây dựng lực lương vũ trang các cấp đều
do tổ chức Đảng và cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng cùng cấp nắm giữ, trực
tiếp lãnh đạo, chỉ huy. Chính từ đó công tác Đảng, công tác chính trị trong lực
lượng vũ trang từng bước định hình và phát triễn khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt nam đối với lực lượng vũ trang là trực tiếp, toàn diện
về mọi mặt. Đây là cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển hệ thống tổ
chức Đảng trong lực lượng vũ trang.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi ủy, Chi bộ Đảng An Lão và chi ủy, chính
quyền các địa phương làng xã , bộ máy quân sự và lực lượng vũ trang Bố Trạch
trong năm đầu sau cách mạng tháng Tám đã có những bước phát triển vững chắc.
Trong khởi nghĩa chỉ có một số làng nơi có phong trào Việt Minh mạnh: Hoàn Lão,
Lý Hòa, Thanh Khê, Hòa Duyệt, Trung Nẫm, Khương Hà thành lập được tổ tự vệ
nhưng cũng chỉ có 7 đến 10 người. Sau ngày chính quyền về tay nhân dân ta, Ban
Dân quân được thành lập; lực lượng tự vệ, dân quân, du kích phát triển đến từng
làng, xã, thôn, xóm và tùy vào thực tế số lượng người tham gia và yêu cầu của
chính quyền cách mạng để tổ chức thành tiểu đội, trung đội.
Trước yêu cầu về trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang, nhân dân Bố Trạch đã
hưởng ứng tích cực phong trào “ Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”, “ Quỹ độc lập”
do Chính phủ phát động nhằm mục đích “ Để dùng vào việc cần cấp và quan trọng
nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng” (* Hồ Chủ tịch tuyển tập,
Nxb Sự thật, H 1960, tr 211,221). Nhiều gia đình, bà mẹ, chị em phụ nữ đem cả
bộ “ Tam sự”, “ Ngũ sự” vật thờ cúng tổ tiên, ông bà, đem mâm thau, nồi đồng,
tháo cả nhẫm vàng, dây chuyền vàng... những kỷ vât của cuộc đời ra ủng hộ cách
mạng. Trong các thôn, xóm, chính quyền cách mạng đã trưng dụng các lò rèn để
rèn dao, mác, đại đao, mã tấu kịp thời trang bị cho tự vệ, dân quân, du kích
làm vũ khí tuần tra, canh gác.
Phong trào tình nguyện tham gia lực lượng tự vệ, dân quân, du kích đã cuốn hút
hàng trăm nam, nữ thanh niên tham gia. Các đội tự vệ không quản trời mưa hay
nắng, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi tổ chức học chính trị, luyện tập quân sự, học
tập đánh du kích, đào hố đặt chông, gài mìn, lựu đạn. Ban Dân quân huyện
còn mời võ sư ở Quảng Trạch về dạy võ cho tự vệ. Việc tổ chức luyện tập
quân sự, học võ không chỉ có lực lượng thanh niên, tự vệ mà có cả những
người trung niên, phụ lão, trẻ em cũng tham gia trở thành phong trào rộng lớn,
sôi động trong các làng, xã, thôn, xóm. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn từ
những người nông dân quen cầm cày, cầm cuốc nay đã biết cầm súng, ném lựu
đạn, đào hố đặt chông, biết tuần tra bảo vệ làng xóm...Từ những người nông dân
không biết chử, nay dã có được những nhận thức chính trị, hiểu biết về Mặt trận
Việt Minh, về kỷ thuật quân sự, kẻ thù xâm lược, tuyệt đối tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, của Việt Minh, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì
nhân dân. Qua học tập, rèn luyện nhiều cán bộ, chiến sĩ tự vệ đã được kết nạp
vào Đảng và trở thành những cán bộ nòng cốt lãnh đạo các đội tự vệ, dân quân,
du kích và đơn vị vũ trang chính quy sau này.
Tháng 11-1945, thực hiện chủ trương của Trung ương về “ tự giãi tán”, Đảng ta
ra tuyên bố tự giãi tán nhưng thực chất trong thực tế Đảng ta rút vào hoạt động
bí mật trên danh nghĩa Hội “ đoàn thể” nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo cách
mạng: “ Về Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai của
Đảng; cần tuyển thêm đảng viên...các tổ chức Đảng phải sinh hoạt cho đều và
không vì lẽ gì để cho nó rời rạc, loạc choạc. Tổ chức các chi bộ trong cơ quan
hành chính hay trong các Hội hợp pháp; củng cố đảng đoàn, trong đó thành lập
chi bộ trong quân đội, phối hợp sự hoạt động bí mật với sự hoạt động công khai,
điều hòa hai sự hoạt động ấy, coi công tác bí mật vẫn là gốc...” (* Đảng
cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 8. Nxb chính trị quốc gia. H
2000, tr 21). Chính vì thế, trong những năm đầu sau khi tuyên bố “ tự giãi tán”
cũng như suốt cả cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược,
Đảng ta vẫn giữ vững hệ thống tổ chức và thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng,
vẫn giữ vững quyền lãnh đạo đối với nhà nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng
trong hệ thống chính trị và trong lực lượng vũ trang.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng ta rất chú trọng đến công tác xây dựng lực
lượng chính trị quần chúng, phát triển Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể
cứu quốc, lực lượng vũ trang. Trong công tác chính trị, tư tưởng, Đảng ta tập
trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền cách mạng nhằm nhanh chóng nâng cao trình
độ nhận thức chính trị cho cán bộ và nhân dân về cách mạng dân tộc, dân chủ, về
Đảng cách mạng, tổ chức Mặt trận Việt Minh... Các đội tuyên truyền xung phong
mà nồng cốt là đội viên tự vệ được thành lập đi về các thôn xóm tuyên truyền
chủ trương chính sách của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều lệ Việt Minh;
vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp và bọn tay sai bán nước; kêu
gọi nhân dân đoàn kết tham gia các đoàn thể cứu quốc, cùng nhau xây dựng,
bảo vệ chính quyền cách mạng. Chính từ các hoạt động tích cực trong công tác
tuyên truyền, vận động cách mạng, nhận thức chính trị của nhân dân được nâng
lên, toàn thể nhân dân trong các địa phương tin tưởng vào công cuộc cách
mạng do Đảng ta lãnh đạo, một lòng ủng hộ cách mạng, ủng hộ Việt Minh, vậnđộng
mọi người tham gia Việt Minh, các Hội cứu quốc, tích cực, hăng hái tham gia các
hoạt động do các tổ chức đoàn thể phát động. Từ trong phong trào cách mạng, các
tổ chức Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ cốt cán, quần chúng trung kiên
để tiếp tục giáo dục, rèn luyện, đào tạo thành những cán bộ của Đảng và quân
đội làm nồng cốt trong các lực lượng chính trị và vũ trang của Đảng
Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và chuẩn
bị tốt cho công tác tổ chức, chỉ đạo chiến đấu khi kasng chiến bùng nổ, cuối
tháng 12-1945 Tỉnh ủy Quảng Bình cử đồng chí Nguyễn Chánh Nhì một cán bộ người
miền Nam có nhiều kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chiến
đấu về làm Bí thư và Chủ nhiệm Việt Minh huyện thay đồng chí Hồng Xích
Tâm đi nhận nhiệm vụ mới. Cũng trong thời gian này để đáp ứng được công tác
quản lý Nhà nước trong tình hình mới, Huyện có chủ trương tổ chức lại các đơn
vị hành chính trên địa bàn, toàn Huyện từ chổ có trên 70 làng xã, thôn xóm được
xắp xếp lại thành 22 làng xã. Ủy ban nhân dân cách mạng theo đó cũng được tổ
chức lại hợp lý hơn và được đổi thành Ủy ban nhân dân, vai trò quản lý nhà nước
từ đây ngày càng được tăng cường hơn.(* Trước Cách mạng tháng Tám, chính quyền
cấp Huyện có ba cấp: Huyện-Tổng-xã, cấp tổng là cấp trung gian, sau Cách mạng
tháng Tám, cấp Tổng được bãi bỏ, chính quyền luac này chỉ có cấp Huyện và cấp
Xã)
Vào những ngày cuối năm 1945, công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội khóa I và Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra sôi nỗi rộng khắp trong các địa
phương trong toàn huyện Bố Trạch, vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Ngày mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng
thụ quyền dân chủ của mình...Ngày mai quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng
dân Việt Nam đã: Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chống bọn thực dân,
kiên quyết tranh quyền độc lập” (* Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1,tr374).
Trước sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, cùng với nhân dân toàn huyện,
lực lượng tự vệ các địa phương, vừa tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình, vừa tích cực triễn khai thực hiện kế hoạch bảo vệ an toàn tuyệt đối các
điểm bỏ phiếu và vận động nhân dân đi bầu cử, làm tròn nghĩa vụ của người công
dân cầm lá phiếu lựa chọn những người đại biểu xứng đáng bầu vào Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp. Từ việc quán triệt chặt chẽ nhiệm vụ của tự vệ
trong công tác bầu cử, triển khai đưa cán bộ, đội viên tự vệ về cùng tham gia
với các tổ chức quần chúng tuyên truyền, vận động nhân dân đi bầu cử, tổ chức
tuần tra, canh gác, bảo vệ đảm bảo an toàn tuyệt đối trong những ngày ngày bầu
cử. Lực lượng tự vệ các địa phương đã góp phần tích cực làm cho ngày bầu cử
Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp lần đầu tiên trỡ thành ngày hội toàn dân
đi bầu cử. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 1-6-1946 ở huyện Bố Trạch đã giành được
thắng lợi to lớn, một trăm phần trăm cử tri đi bỏ phiếu, các đại biểu: Đồng Sỹ
Nguyên, Võ Văn Quyết, Võ Thuần Nho, Trần Hường, Hoàng Văn Diệm được trúng cử
vào Quốc hội với đa số phiếu tuyệt đối.
Đứng trước âm mưu của thực dân pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai,
để tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối toàn diện của Đảng đối với lực
lượng vũ trang chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Đầu năm 1946, Ban chấp
hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân ủy, đồng chí Võ
Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư. Trung ương Quân ủy là cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Đảng trong quân đội và lực lượng vũ trang. Sự ra đời của Trung
ương Quân ủy đưa đến sự hình thành hệ thống tổ chức đảng trong quân đội từ
Trung ương xuống cấp chi bộ. Tuy nhiên ở Khu VI nói chung, Quảng Bình nói
riêng, Xứ ủy, Tỉnh ủy và Huyện ủy vẫn trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ
trang. Với những quyết định của Đảng về hệ thống tổ chức đảng và cơ quan chính
trị trong quân đội đã tác động đến vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy và
tạo nên hiệu quả ngày một lớn trong công tác xây dựng lực lượng, công tác chính
trị của lực lương vũ trang trong toàn tỉnh Quảng Bình.
Sau cách mạng tháng Tám, trong điều kiện Huyện nhà gặp rất nhiều khó khăn, được
sự lãnh đạo trực tiếp chủa Chi ủy, Chi bộ Đảng An Lão, các đội tự vệ các địa
phương được sự giúp đỡ, cưu mang, đùm bọc của chính quền và nhân dân đã không
quản ngại vất vả, mưa nắng tổ chức học tập chính trị, huấn luyện quân sự, tuần
tra canh gác; Các đội tự vệ còn tích cực tham gia khai hoang phục hóa đất dai
bỏ hoang đưa vào tăng gia sản xuất, thành lập trại sản xuất ở Lâm Trạch (Phú
Định) cử các đồng chí Mai Trọng Nguyên, Phan Khắc Hy, Quách Xuân Kỳ và nhiều
thanh niên, chiến sỹ tự vệ lên trực tiếp phát cây, cày đất trồng khoai, sắn,
bắp(ngô) góp phần cùng nhân dân chống “ Giặc đói”, chuẩn bị lương thực, thực
phẩm cho cuộc kháng chiến. Lực lượng tự vệ còn tích cực tham gia vào công
tác dạy chữ quốc ngữ cho nhân dân để diệt “Giặc dốt”. Đặc biệt lực lượng tự vệ
còn tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao động
viên kịp thời khí thế cách mạng của quần chúng.
Trong lúc nhân dân ta đang ra sức tập trung trí tuệ, sức lực, của cải để xây
dựng chế độ mới, chống “giặc đói”, “giặc dốt” thì thực dân Pháp lại âm
mưu cướp nước ta một lần nữa. Cả dân tộc lúc này cùng một lúc phải đương đầu
với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Lợi dụng việc giãi giáp
quân đồng minh, gần 2 vạn quân Tưởng Giới Thạch, quân Anh cùng lực lượng tiếp
phòng của Pháp ở Thanh Hóa, Vinh, Đồng Hới, Đông Hà, Huế ráo riết đẩy mạnh các
hoạt động móc nối với bọ phản động trong các tổ chức: Việt quốc, Việt cách uy
hiếp, tấn công chống phá chính quyền nhiều địa phương.
Ngày 23-9-1945, núp dưới bóng quân Anh, thực dân Pháp nổ súng tiến đánh Sài
Gòn- Gia Định, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhân dân
Nam Bộ một lần nữa cầm súng đứng lên chiến đấu. Trước tình hình đó, Chính phủ
ta đã ra lời kêu gọi nhân dân cả nước ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống
thực dân Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, khắp nơi trong toàn
huyện Bố Trạch chính quyền cách mạng cho thành lập phòng “Nam Bộ” và tổ chức ngày
“ Nam Bộ kháng chiến” nhằm tuyên truyền, vận động thanh niên đến đăng ký tình
nguyện vào Nam chiến đấu. Phong trào “Nam tiến” đã cuốn hút hàng trăm thanh
niên đăng ký, ghi tên xin được nhập ngũ. Ngày 27-12-1945, nhân dân Bố Trạch lưu
luyến tiễn đưa hơn 30 người con yêu quý tham gia vào đoàn quân “Nam tiến” của
tỉnh vào Nam đánh giặc, chỉ riêng làng Lý Hòa đã có 10 thanh niên: Nguyễn Lai (
Cộc), Đặng Gia Ủy, Hoàng Hin, Nguyễn Dật, Phạm Chán, Nguyễn Duy Cò, Nguyễn
Cang, Hồ Xuân, Hoàng Tít, Phạm Xoa lên đường Nam tiến chiến đấu. Trung đội tình
nguyện Nam tiến của Bố Trạch vinh dự được tham gia trong đội hình bộ đội Nam
tiến của tỉnh Quảng Bình vào chiến đấu ở chiến trường Nam Trung Bộ góp phần
cùng chia lữa với đồng bào Nam Bộ ruột thịt trong ngày đầu kháng chiến.
Để đáp ứng nhanh về đội ngũ cán bộ quân sự trong tình hình mới, Xứ Ủy
Trung Bộ đã cấp tốc xây dựng các trường đào tạo cán bộ chính trị và cán bộ quân
sự cho lực lượng vũ trang chủ lực và vũ trang các tỉnh. Tháng 2-1946, Xứ Ủy
quyết định chuyển trường Quân sự của Xứ ủy thàng trường Quân chính khu IV
và chuyển trường từ Huế ra Nhượng Bạn, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh (*
Ngày 15-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập cá chiến khu trên
cả nước. Chiến khu IV gồn có 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, do đồng chí Lê Thiết Hùng làm chỉ huy trưởng, đồng
chí Hồ Tùng Mậu làm chính ủy viên bộ chỉ huy chiến khu). Ở Quảng Bình, đầu
năm 1946 trường quân sự Lê Trực được thành lập tại thị xã Đồng Hới. Trong khóa
học đầu tiên của trường Quân sự tỉnh, huyện Bố Trạch có đồng chí Phan Khắc
Hy đi học và cũng chính từ đây nhiều cán bộ chính trị, quân sự của huyện
được cử đi học tại trường Quân chính khu IV và trường Quân sự tỉnh trở về
trưỡng thành những cán bộ nồng cốt trong lực lượng vũ trang.
Trong bối cảnh “ thù trong, giặc ngoài” bao vây bốn phía, để có thêm thời gian,
điều kiện xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng và đối phó với thực dân Pháp
và những kẻ thù nguy hiểm khác. Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
chính phủ ta ký Hiệp định sơ bộ với Xanhtơni đại diện Chính phủ Pháp. Với Hiệp
đinh này Chính phủ Pháp phải công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp, có Chính phủ, quân đội và tài
chính riêng.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị lịch sử “ Hòa để tiến”
Bản chỉ thị vạch rõ hòa với Pháp là nhằm: “ Bảo tòa lực lượng lấy giây
phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấm chỉnh đội ngũ cách
mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và cũng cố phong trào. Tóm lại để chuẩn bị đầy
đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới” (* Đảng csVN: Văn
kiện Đảng toàn tập, Sdd, 2000, t8,tr49).
Cuối tháng 4-1946, toàn bộ quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi các tỉnh thuộc Chiến
khu IV. Như vậy trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ và Hồ
chủ tịch quân và dân huyện Bố Trạch cùng nhân dân các tỉnh trong Chiến khu IV
đã bình tỉnh, khôn khéo, kiên quyết đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh ngăn chặn và
từng bước làm thất bại âm mưu “...Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt
Minh...” của quân Tưởng đi đến đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất
nước ta, bảo vệ vững chắc Chính quyền cách mạng non trẻ.
Nhằm tiến tới xây dựng Quân đội quốc gia hùng mạnh đáp ứng yêu cầu của cuộc
kháng chiến. Ngày 22-5-1946, Chính phủ ra sắc lệnh số 71 quy định Vệ quốc quân
chính thức trở thành Quân đội quốc gia nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính từ
đây dù đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn nhưng nhờ biết dựa vào dân,
dược nhân dân che chở, đùm bộc, giúp đỡ và được sự lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện của Đảng, Chính phủ và của Chủ tịch Hồ chí Minh; Phát huy ý chí tự lực tự
cường vừa xây dựng vừa đánh giặc, vừa đánh giặc vừa xây dựng , Quân Đội
quốc gia Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả ba lực lượng: Bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân tự vệ.
Để tăng cường vai trò lãnh đạo của chức Đảng cấp Huyện và chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến lâu dài, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Bình. Hạ tuần
táng 10-1946, Đại hội Chi bộ An Lão lần thứ nhất được tổ chức, dự Đại hội có 75
đảng viên. Đại hội đánh giá lại hoạt động kể từ Hội nghị cũng cố Chi bộ An Lão,
công tác phát triển đảng viên, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền cách
mạng, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức đoàn thể cứu quốc. ..Đại hội đề
ra nhiệm vụ: Nâng cao hơn nữa nhận thức về Đảng cho cán bộ, đảng viên. Phát
triển Đảng viên mới. Củng cố phát triển Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu
quốc. Chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến chống thực dân Pháp.Đại Hội bầu Ban chấp
hành Chi bộ gồm có 7 đồng chí; đồng chí Nguyễn Chánh Nhì được bầu làm Bí thư
.(* Chi bộ An Lão lúc này đóng vai trò như một cấp Ủy Huyện)
Nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc kháng chiến kịp thời, sát
thực triển tình hình các địa phương trong vùng Trung Bộ. Tháng 11-1945, sau khi
giãi thể Xứ ủy Trung Bộ, Trung ương Đảng quyết định chia Trung Bộ thành hai
khu: Khu IV và khu V; khu IV gồm sáu trnh Bắc Trung bộ đó là: Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Đi cùng với việc thành lập khu,
cuối tháng 11-1946, Đảng ủy khu IV được thành lập do đồng chí Hoàng Quốc Việt,
Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đại diện Trung ương ở Trung Bộ làm Bí thư.
Đảng ủy khu IV xác định nhiệm vụ: Quân sự là chủ yếu và xem chiến khu là ở
trong lòng dân, phải dựa vào dân. Để thực hiện được nhiệm vụ, Đảng ủy khu chủ
trương tập trung lựa chọn các đồng chí có khả năng về quân sự đưa vào đội ngũ
lãnh đạo. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Khu IV, ngày 22-11-1946,
Trung ương Quân ủy quyết định khu ủy quân sự IV trực thuộc Đảng bộ Khu IV. Hệ thống
tổ chức Đảng có Khu ủy, trung đoàn ủy, tiểu đoàn ủy, chi bộ đại đội, tổ đảng.
Các chi bộ đại đội du kích thường trực tỉnh, huyện đặt dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng địa phương.(* Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Quảng Bình-1945-2010 Nxb
Qđnd 2010, tr71)
Vào những tháng cuối năm 1946, tình hình nước ta ngày càng căng thẳng. Thực dân
Pháp ngày càng trắng trợn vi phạm các điểu khoản đã ký kết tại các Hiệp định sơ
bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, chúng cho quân đánh vào các tỉnh Nam Trung bộ
và thành phố Hải Phòng, khiêu khích Hà Nội và tăng cường đư quân từ Pháp sang
Đông Dương.
Trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp, để chủ động đối phó với
địch. Cuối tháng 12-1946, Tỉnh ủy mở Hội nghị quân, dân, chính đảng bàn kế
hoạch chuẩn bị kháng chiến. Hội nghị đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt là: Lực
lượng vũ trang và các địa phương, các ngành tăng cường nắm tình hình hoạt động
của địch, tổ chức động viên chuẩn bị kháng chiến. Các kế hoạch tác chiến, bố
phòng, chuẩn bị cắm cọc ở các bờ sông, các bãi bằng để phòng dịch tiên quân
bằng đường thủy và đổ bộ bằng đường không, chuẩn bị tiêu thổ kháng chiến, kế
hoạch sơ tán, tản cư dân...phải gấp rút bổ sung và hoàn chỉnh. Các lực lương vũ
trang được bố trí sẵn sàng đánh địch và ráo riết luyện tập theo kế hoạch tác
chiến đã dự kiến. Từng bước thực hiện chủ trương quân sự hóa toàn dân, tất cả
nam, nữ trong độ tuổi đều đưa vào dân quân. Hội nghị quyết định thành lập Ủy
ban chuẩn bị kháng chiến tỉnh và các cấp.
Sau khi đánh chiếm Hải Phòng, ngày 17-12-1946, quân Pháp liên tục khiêu khích
ta ở Hà Nội. Trong các ngày 18 và 19, quân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ
ta, đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi chiếm các công sở của ta ở Hà Nội.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, trong hai ngày 18 và 19 năm 1946, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị tại làng Vạn Phúc ( Hà Đông) dưới sự chủ trì
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định: Thực dân Pháp đã chấm dứt đàn
phán, cố trình gây chiến tranh xâm lược nước ta, Vì thế, dân tộc Việt Nam không
còn con đường nào khác là phải đứng lên tiến hành kháng chiến chống xâm lược
bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 20-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“...Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên.!..(* Hồ Chí Minh, toàn tập, Sdd, t4, tr480)
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch của non
sông đất nước, là mệnh lệnh của cách mạng giục giã mọi người dân Việt Nam đoàn
kết đứng lên đánh giặc cứu nước, bảo vệ Tổ quốc.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp hành mệnh lệnh của Bộ chỉ
huy Chiến khu IV và kế hoạch chuẩn bị kháng chiến của Tỉnh ủy, Ủy ban
chuẩn bị kháng chiến Tỉnh, cùng với nhân dân cả nước, quân và dân huyện Bố
Trạch khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến trên tinh thần: Toàn dân,
toàn diện, kháng chiến lâu dài.
Huyện Bố Trạch ở vào vị trí hẹp nhất của đất nước, nằm trên các trục đường giao
thông chiến lược Bắc-Nam và sang Lào. Phía Tây có núi cao lèn đá hiểm trở, có
đường thông qua lào, phía đông có biển...đây là những khó khăn, trở ngại lớn
đối với lực lượng kháng chiến trong việc triển khại lực lượng chiến đấu, trong
tiến công, phòng thủ và chống chia cắt trong chiến tranh chống xâm lược.
Xác định là một địa bàn chiến lược của tỉnh Quảng Bình, là cầu nối giữa vùng tự
do Thanh-Nghệ -Tỉnh với mặt trận Bình-Trị-Thiên, Cấp ủy Huyện Bố Trạch đã chỉ
đạo Ủy ban chuẩn bị kháng chiến Huyện và các địa phương nhanh chóng đổi thành
Ủy ban kháng chiến có nhiệm vụ cùng với Ủy ban hành chính điều hành mọi hoạt
động chuẩn bị kháng chiến, huy động sức người, sức của phục vụ tốt công cuộc
kháng chiến. Các Ban di cư, tản cư dân chúng khẩn trương được thành lập
chuẩn bị sẵn sàng đưa dân tạm lánh xa các vùng chiến sự tránh giảm bớt thương
vong, bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Để chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến, Cấp ủy Huyện mà trực tiếp là đồng chí Bí thư chi bộ Nguyễn Chánh Nhì,
phối hợp với chỉ huy trung đội bộ đội vệ quốc đoàn đi khảo sát các tuyến đường
giao thông ở vùng núi, vùng trung du, đồng bằng ven biển, đường từ Đồng Hới lên
Thuận Đức ra Đồng Lê, Sen Bàng, Thọ Lộc lên Cự Nẫm, Gia Hưng, Phú Hữu đến Đức
Hóa ( Tuyên Hóa) đường từ Phú Hội ra Lý Nhân Nam, đến Lý Hòa qua Hỷ Duyệt
lên Cự Nãm và từ Lý Hòa qua khe Sắn đến Ba Đề lên Cao Nguyên sang Quảng Minh (
Quảng Trạch) hoặc theo sông Son lên Phong Nha-Tróc. Đường biển từ Lý Nhân Nam
ra Lý Hòa, Thanh Khê sang Mỹ Hòa ra Ròn.....và một số địa điểm: Hòa
Duyệt, vùng núi Lâm Trạch (Phú Định), làng Cự Nẫm, Bồng Lai, khe Ồ Ồ, thôn
Phong Nha để xây dựng thành các căn cứ kháng chiến và làng chiến đấu.
Về lực lượng chiến đấu, trong lúc huyện Bố Trạch chưa thành lập được lực lượng
tự vệ tập trung, nhưng để đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất trong công tác chính
trị, công tác tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang. Cấp ủy Huyện quyết định
thanh lập Ban tự vệ huyện do đồng chí Đặng Rợ phụ trách trưởng ban, đồng chí
Hoàng Đống phụ trách chính trị. Để nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang nồng
cốt trong thời gian chuẩn bị kháng chiến, Ủy ban kháng chiến tỉnh đã tăng cường
cho Bố Trạch một trung đội bộ đội vệ quốc đoàn của Chi đội Lê Trực do đồng chí
Nguyễn Văn Thứ chỉ huy về tham gia tổ chức nghiên cứu, xây dựng các đội tự vệ,
dân quân, du kích và xây dựng làng chiến đấu Cự Nẫm. Chi bộ Đảng chỉ đạo Ủy ban
khàng chiến Huyện và các địa phương gấp rút tuyển chọn thanh niên bổ sung vào
các đội tự vệ và lực lượng dân quân, du kích. Vũ khí trang bị lúc này ngoài số
súng, lựu đạn của trung đội vệ quốc đoàn, số vũ khí tại chổ có 12 khẩu súng
trường có được trong khởi nghĩa tháng Tám, ngoài ra mỗi chiến sỹ tự vệ, dân
quân, du kích đều có ít nhất một loại vũ khí như: Đại đao, mã tấu, mác lào,
gươm, giáo...Hàng ngày, các đội viên tự vệ, dân quân, du kích vừa sản xuất, vừa
thay phiên nhau tuần tra canh gác, luyện tập quân sự học cách bắn súng, ném lựu
đạn, đào hầm đặt chông...Một số đội viên đi về các thôn xóm vận động nhân dân
thực hiện chủ trương” Vườn không, nhà trống”, “Tiêu thổ kháng chiến”. Với lòng
căm thù quân xam lược, nhân dân tự giác phá vườn, chặt cây, tháo nhà cho tự vệ
làm hầm chiến đấu. Nhân dân, đội viên tự vệ, dân quân du kích góp hàng ngàn
ngày công đào hầm, đắp ụ, đào phá đường giao thông, lập các chướng ngại vật
trên đường, dựng chòi canh. Nhân dân, tự vệ , dân quân, du kích các địa phương
ở dọc các đường quốc lộ 1A, đường tỉnh lộ 2, đường sắt khẩn trương đào
hào, đắp ụ, phá cầu cống, đường tàu lập các chướng ngại vật xây dựng
nhiều phòng tuyến chiến đấu cản giặc đánh vào làng. Nhiều đình, chùa,
công sở nơi địch có khả năng biến thành đồn bốt, trại lính,nơi đóng quân,
đều kịp thời được tháo dở xuống làm hầm, hào...cả Bố Trạch trở thành một mặt
trận của chiến tranh nhân dân, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu sống mái với quân
thù.
Từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946 là một thời kỳ lịch sử đặc biệt đối
với cách mạng Việt nam nói chung và huyện Bố Trạch nói riêng. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Bố Trạch đứng lên
cách mạng và đã giành được chính quyền, từ đó tổ chức đảng, chính quyền, Mặt
trận các đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ từ Huyện đến làng, xã được thiết
lập. Tự vệ, dân quân, du kích là lực lượng bán vũ trang được thành lập theo yêu
cầu của phong trào cách mạng ở địa Phương. Là công cụ bạo lực cách mạng của
Đảng, tự vệ, dân quân, du kich tuy ra đời sau lực lượng chính trị nhưng lại có
một vị trí hết sức quan trọng là bà đỡ của cách mạng. Chính vì vậy suốt cả quá
trình vận động xây dựng và phát triển, dù trãi qua biết bao khó khăn của năm
đầu sau khi cách mạng thành công, lực lượng tự vệ, dân quân, du kích dù nhiệm
vụ có khác nhau nhưng tất thảy đều vì một mục tiêu chung là xây dựng, bảo vệ
chính quyền cách mạng. Vì vậy, lực lượng tự vệ, dân quân, du kích từ Huyện đến
làng, xã luôn đoàn kết, thống nhất chấp hành nghiêm túc mọi nhiệm vụ do tổ chức
Đảng, chính quyền giao cho, xung kích, đi đầu trong mọi nhiệm vụ trở thành lực
lượng nồng cốt của phong trào cách mạng.
Đội viên tự vệ, dân quân, du kích xuất thân từ nông dân, trình độ văn hóa
thấp, nhận thức chính trị còn hạn chế, nhưng tuyệt tất cả đều chó chung một chí
hướng tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh
dám chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh tham gia một cách tích cực cùng tổ chức
Đảng, Mặt Trận và các tổ chức doàn thể quần chúng xây dựng, củng cố và bảo vệ chính
quyền và các thành quả cách mạng. Đây là tiền đề, là cơ sở vững chắc để lực
lượng vũ trang Huyện tự tin bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược với tinh thần quyết đánh và quyết thắng
CHƯƠNG II
XÂY DƯNG, PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CƠ QUAN, ĐƠN VỊ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
HUYỆN, LÃNH ĐẠO LỰC LƯƠNG VŨ TRANG XÂY DỰNG THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TIẾN
HÀNH KHÁNG CHIẾN ( 3-1947 – 10-1950)
I- TĂNG CƯỜNG CÁN BỘ, PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN,
TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CƠ QUAN QUÂN SỰ, ĐƠN VỊ LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG.
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường
lối kháng chiến “ Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến” của Đảng, quân và
dân Bố Trạch cùng nhân dân cả nước lần thứ hai đứng lên kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược.
Sau nhiều lần gây hấn đánh vào Hà Nội, ngày 19-12-1946, quân Pháp tập
trung lực lượng đánh Hà Nội. Cuộc chiến đấu của của nhân dân ta chính thức nổ
ra ở Hà Nội và các thị xã, thành phố Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Vinh, Huế
Đà Nẵng...đã phá tan mưu đồ của thực dân Pháp định huy động toàn bộ lực lượng
hòng chớp nhoáng đánh chiếm nước ta.
Trước tình hình cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ngày một lan rộng
trên quy mô toàn quốc, để cụ thể hóa đường lối kháng chiến trong tình hình
trước mắt và kịp thời rút kinh nghiệm những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc. Trong 3 ngày từ 3 đến ngày 6-4-1947, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
triệu tậpHội nghị cán bộ, Hội nghị nhận định: “ Tình hình Pháp lại đặc biệt
nguy khốn và nước pháp xa Việt Nam hàng vạn cây số, nên Việt Nam vẫn có thể
kháng chiến và nắm chắc thắng lợi bằng cách mở rộng mặt trận ở bất cứ nơi nào
có bóng địch, đánh ngay ở cả sau lưng địch, trong ruột địch.” (* Văn kiện
Đảng 1945-1954, Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 4/1947-tII, q1. Ban NCLSĐảng
TW 1979 tr30).
Hội
nghị nhắc nhở các cấp bộ Đảng ở các địa phương trong cả nước và các cấp chỉ huy
quân sự phải nắm vững chiến thuật căn bản “ du kích vận động chiến” (* Trong
tài liệu tiến mạnh sang giai đoạn mới, xuất bản tại Việt Bắc năm 1948, Bộ tổng
chỉ huy giải thích khái niệm du kích vận động chiến như sau: các chiến thuật mà
quân đội chính quy ta thường dùng là du kích vận động chiến, không phải là du
kích chiến vì lực lượng huy động tương đối lớn, về mục đích nhằm tiêu diệt hơn
là tiêu hao, nhưng cũng chưa phải là vận động chiến vì điều kiện kỷ thuật và
giáo luyện của quân đội ta còn kém vì phạm vi tác chiến chưa rộng lớn lắm, lại
vì hình thức chiến đấu có khi là bao vây, vu hồi, nhưng có khi là phục kích tập
kich, mà cũng có khi là phối hợp tất cả các hình thức ấy. Trong quá trình chiến
tranh du kích chiến phải phát triển thành vận động chiến. Hai chiến thuật khác
nhau ở trình độ phát triển. Chiến thuật du kích vận động của bộ đội ta ở vào
quảng giữa trên quá trình phát triển ấy”, tránh lối trận địa cứng đờ, mà dùng
cách đánh vòng, đáng sau lưng, đánh bên hong quân địch”, du kích vận động chiến
phải là cách đánh của toàn dân không phải của riêng bộ đội”. Do đó phải phát
động phong trào dân quân, phong trào du kích chiên tranh và phải vũ trang
toàn dân. “ Hóa một phần bộ đội thành dân quân ( nhất là những nơi bị chiếm
đóng). Phát triễn các “đội vũ trang công tác”, “ đội danh dự trừ gian”, “ biệt
động đội”, sử dụng những “đội quân đặc biệt tích cực và linh hoạt, thừa lúc
thuận tiện, tiến thất nhanh và sâu vào vùng địch kiểm soát, đánh chớp nhoáng,
tiêu diệt địch, rồi rút lui thật nhanh ra khỏi vùng kiểm soát của địch”. “ Tổ
chức căn cứ địa ở miền rừng núi và đồng bằng”. Trong các căn cứ địa chú ý xây
dựng kinh tế kháng chiến với ba thành phần” kinh tế cá nhân, kinh tế hợp tác xã
và kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh sản xuất vũ khí thô sơ thông thường, nghiên cứu
sản xuất vũ khí mới, thực hành chế độ bộ đội tham gia sản xuất” (* những
đoạn trích trong ngoặc kép là trích từ nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương
tháng 4-1947). Về công tác xây dựng Đảng, phải “ Làm cho đoàn thể thành đoàn
thể quần chúng” (* Lúc này Đảng ta tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút
vào hoạt động bí mật, nên có lúc gọi là đoàn thể) chú ý phát triển đảng trong
bộ đội, dân quân, trong các cơ quan nhà nước, trong vùng sau lưng địch.
Về công tác tư tưởng, Trung ương Đảng chủ trương học tập và phê bình theo thư
Hồ Chủ Tịch gửi các đồng chí Bắc Bộ và Trung Bộ “ Trong lúc dân tộc ta đang ở
ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi một đồng chí hay đoàn thể phải
đem tất cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân ra quay về một hướng, nhằm
vào một đích: đáng đổ thực dân Pháp, làm cho nước nhà thống nhất và độc lập...
Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi đồng chí rất có quan hệ đến toàn
quốc. Nếu một người sơ xuất là có thể hỏng việc to, sai một ly, đi một dặm” (* Thư
Hồ chủ tịch gửi các đồng chí Trung bộ năm 1947- Quảng Bình ơn Bác – Ban NCLS
Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình 1975-tr13.)
Từ thực tiển ngày đầu kháng chiến chống Pháp và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
tháng 4-1947 và thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Trung bộ bước đầu hình thành đường
lối kháng chiến “ Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến” của Đảng ta đồng
thời qua đó một lần nữa xác định quyết tâm, mục tiêu, định hướng tư tưởng và
hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân hãy” Đem sức ta, giải phóng
cho ta”.
Đến đầu tháng 1-1947, cuộc tiến công của quân và dân ta vào các vị trí địch ở
các thành phố, thị xã từ Đà Nẵng trở ra đã trãi qua hơn nữa tháng. Đây là cuộc
chiến đấu được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất. Ta đã tiêu hao, tiêu
diệt được một bộ phận sinh lực địch. Chúng ta đã làm thất bại âm mưu định đánh
úp cơ quan đầu não của ta ở Hà Nội và tiêu diệt lực lượng vũ trang ta ở các thị
xã, thành phố, như tướng Pháp Va-luy từng tuyên bố: “ đánh vào ngọn hệ thống
hình tháp Việt Minh”... “ đây là cố gắng cuối cùng của chúng ta trước khi chiến
thắng” (* công văn số 478/CAB ngày 19-7-1947 của Va-luy, tổng chỉ huy quân
viễn chinh Pháp ở Đông Dương gửi cho tướng Xa-Lăng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc
Đông Dương.)
Sau khi đánh chiếm Thừa Thiên, Quảng Trị, quân Pháp được tăng thêm viện binh
chuẩn bị mở cuộc tiến công đánh chiếm Quảng Bình theo chiến lược “ Đánh nhanh,
thắng nhanh”
Nhận rỏ ý đồ của quân Pháp, sau khi đánh chiếm được Thừa Thiên-Quảng Trị; quân
Pháp sớm muộn cũng đáng chiếm Quảng Bình. Thực hiện sự chỉ đạo của
Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình. Cấp ủy chi bộ An
Lão đã tập trung chỉ các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương trên địa bàn
huyện Bố Trạch, nhanh chóng triển khai lực lượng tự vệ, dân quân, du kích theo
phương án chiến đấu, đồng thời chuẩn bị đội ngũ cán bộ hướng dẫn đưa dân đi tản
cư về các vùng xa nơi chiến sự đang diễn ra nhằm hạn chế thấp nhất thiệt
hại về người và tài sản của nhân dân. Cùng lúc này để tập trung xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang tập trung của huyện Bố Trạch, Ban dân quân tỉnh
đã điều động đồng chí Trần Cảm, ủy viên quân sự Tỉnh về Bố Trạch phối hợp cùng
cấp ủy Huyện và Ban dân quân thành lập trung đội du kích tập trung và trực tiếp
phụ trách trung đội này.
Thực hiện âm mưu “ Đánh nhanh, thắng nhanh” chiếm Quảng Bình, chia cắt
vùng tự do Thanh-Nghệ-Tỉnh với chiến trường Trị-Thiên. Thực dân Pháp ở
Thừa Thiên và Quảng Trị đã huy động một lực lượng lớn các đơn vị bộ binh, hải
quân , không quân và lính thủy đánh bộ với khoảng 2000 quân, chia làm hai cánh:
Cánh thứ nhất từ Quảng Trị, theo đường quốc lộ 1A đánh ra Quảng Bình; Cánh thứ
hai gồm lính thủy đánh bộ dưới sự yểm trợ của tàu chiến, máy bay tiến công trên
ba hướng: đánh vào thị xã Đồng Hới, cửa sông Gianh, sông Lý Hòa, trong đó hướng
chính diện là thị xã Đồng Hới. Sau khi chiếm được Đồng hới và các xã ven đường
quốc lộ 1A thuộc huyện Bố Trạch, quân Pháp sẽ tiến đánh chiếm các vùng đất còn
lại của Quảng Bình.
16 giờ ngày 26-3-1947, lực lượng lính thủy đánh bộ được tàu chiền Pháp chở tới
dàn trận ngoài khơi cách bờ biển Nhật Lệ hơn 2 hải lý, chuẩn bị đổ bộ đánh
chiếm Đồng Hới.
Sáng ngày 27-3-1947, trên bầu trời Quảng Bình, máy bay Pháp quần đảo, ném
bom xuống một số vùng chúng nghi có quân ta dọc bờ biển từ Nhật Lệ ra đến Lý
Hòa; ngoài biển đại bác trên các tàu chiến Pháp đồng loạt nổ súng bắn vào bãi
biển Nhật Lệ và thị xã Đồng Hới(* Trần Công Tấn – Dòng sông Son vẫn trong xanh
- trích nhật ký kháng chiến của đồng chí Quách Xuân Kỳ, ngày 27-3-1947, bốn giờ
sáng đi Lý Hòa, 7 giờ trở về. Dọc đường gặp phi cơ Pháp oanh tạc ở Bố Trạch. Em
Nhuận trúng đạn, bị thương nặng đến 3 giờ chiều chết- Nxb Thời Đại tr 62). Cuộc
chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Quảng Bình bắt đầu .
Quân lính thủy đánh bộ Pháp được ca nô chở ồ ạt tiến vào bờ biển Nhật Lệ. Phía
sau các động cát, rừng phi lao, trong các trận địa bộ đội Chi đội Lê Trực do
tiểu đoàn trưởng Lê Thanh Đồng chỉ huy cùng tự vệ, dân quân, du kích nhanh
chóng triển khai chiến đấu. Ngay khi quân Pháp vừa đặt chân lên bờ, từ các trận
địa quân ta đồng loạt nổ súng. Mặc dù lực lượng ít, vũ khí thô sơ nhưng bộ đội,
tự vệ, dân quân, du kích vẫn đánh trả quyết liệt, đánh bật nhiều đợt tấn công
của địch, tiêu diệt làm bị thương hàng chục tên. Bất ngờ trước sự chống trả
quyết liệt của quân ta, địch thay đổi chiến thuật vừa tăng cường cho máy bay
ném bom bắn phá vào trận địa ta ở Đồng Thành, vừa tổ chức hai mũi vu hồi đánh
vào Phú Hội và Bảo Ninh nhằm buộc quân ta phải chia nhỏ, phân tán đội hình
chống đỡ các cuộc tấn công của chúng trên hai mặt trận mới. Đến 12 giờ trưa
ngày 27-3, lực lượng ta bị tổn thất nặng, tiểu đoàn trưởng Lê Thành Đồng cùng
nhiều cán bộ, chiến sỹ hy sinh...Trong khi đó quân Pháp được máy bay, tàu chiến
yểm trợ liên tục mở các cuộc tấn công đánh vào quân ta. Trước sự chênh lênh
lệch quá lớn về lực lượng, vũ khí; để bảo toàn lực lượng chiến đấu, Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh lệnh cho bộ đội, tự vệ, dân quân, du kích rút lui.
Cùng lúc này lực lượng công binh được lệnh nổ mìn đánh sập cầu Dài, phá hủy nhà
máy điện Thuận Lý và các công sở biến Đồng Hới thành một bãi hoang tàn vườn
không nhà trống.
Bố Trạch án ngự phía Bắc thị xã Đồng Hới, ở vào nơi hẹp nhất của đất nước, là
vùng đất dễ bị chia cắt trong các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì vậy,
huyện Bố Trạch được quân Pháp chọn làm mục tiêu đánh chiếm đầu tiên ngay khi
chiếm được thị xã Đồng Hới. Sau khi đổ bộ đánh chiếm được thị xã Đồng Hới,
chiều ngày 27-3-1947, quân Pháp tổ chức một tiểu đội bộ binh cơ giới tấn công
ra Bố Trạch nhằm thăm dò lực lượng của ta. Do được chuẩn bị từ trước, khi quân
Pháp theo đường quốc lộ 1A từ Đồng Hới ra đến Hoàn Lão, chúng lọt vào giữa trận
địa phục kích của tự vệ, du kích ở lòi Toán. Lợi dụng địa hình, địa vật
cây cối rậm rạp, tự vệ, du kích từ trong công sự ném lựu đạn vào đội hình hành
quân của địch, mặc dù lựu đạn không nổ nhưng bị tấn công bất ngờ, quân pháp
hoảng hốt nổ súng loạn xạ và quay xe tháo chạy về Đồng Hới.(* Một giờ
chiều, giặc đi xe jep qua Bố Trạch...Sdd )
Sáng ngày 28-3-1947, thực hiện “ Âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh” cùng với việc
tấn công đánh chiếm ga Thuận Lý, Diêm Điền, Đức Phổ, Lệ Kỳ...quân Pháp điều
động hơn 500 lính thủy đánh bộ và lính bộ binh cơ giới, máy bay, tàu chiến ồ ạt
tấn công đánh chiếm Bố Trạch trên hai hướng từ biển vào và từ Đồng
Hới ra. Hướng tấn công
chính diện gồm tiểu đoàn bộ binh cơ giới từ Đồng Hới theo đường quốc lộ 1A tiến
ra đánh chiếm Liên Dinh và Hoàn Lão; Hướng tấn công thứ hai bằng đường biển gồm
lính thủy đánh bộ, đổ bộ lên cửa sông Lý Hòa và cửa sông Gianh đánh chiếm Lý
Hòa-Quy Đức và Thanh Khê sau đó hợp với cánh quân bộ đánh chiến những vùng đất
còn lại của huyện Bố Trạch.(* Quân Pháp đổ bộ chiếm Thanh Khê, Lý Hòa, Quy Đức,
Liên Dinh...Sdd )
Ngay sau khi quân Pháp trên cả hai hướng đặt chân lên đất Bố Trạch, giữa
tiếng gầm rú của máy bay, tiếng nổ của, bom, đạn; Tự vệ, dân quân, du kích các
địa phương Liên Dinh, Hoàn Lão, Quy Đức, Lý Hòa, Thanh Khê nơi địch trực tiếp
tấn công đánh chiếm đã lợi dụng địa hình, địa vật, dựa vào công sự hầm, hào tổ
chức đánh trả quyết liệt. Tại Lý Hòa, dân quân đã cho nổ mìn phá sập cầu Lý
Hòa, quân Pháp buộc phải quay trở lại chiếm Đình làng làm nơi đóng quân và từ
năm 1947 đến năm 1949, Lê Hữu Trũng tri huyện Bố Trạch đã lấy Đình làng Lý Hòa
đặt nơi làm việc và chỉ đạo chiến tranh của chính quyền tay sai. Trong suốt gần
hai ngày đêm chiến đấu, bằng lối đánh “ du kích chiến” tự vệ, dân quân,
du kích Bố Trạch đã anh dũng chiến đấu ngoan cường, đánh lui nhiều đợt phản công
của địch. Mặc dù đã có sự chuẩn bị chủ động đánh địch nhưng do chiến đấu trong
một thế trận không cân sức về quân số và vũ khí trang bị, tự vệ, dân quân, du
kích mỗi địa phương chỉ có một đến hai tiểu đội, vũ khí chủ yếu đại đao, mã
tấu, mác lào, một số súng trường, lựu đạn thu được của quân Pháp, Nhật.. trong
cách mạng tháng Tám, hơn nữa mặt trận trãi dài từ đầu huyện đến cuối
huyện nên sự hổ trợ, chi viện, chia lữa cho nhau không có, mặt khác tự
vệ, dân quân, du kích chưa có kinh nghiệm chiến đấu đó là những bất lợi trong
những ngày đầu đối mặt trực tiếp với kẻ địch dạn dày trận mạc. Để bảo toàn lực
lượng chiến đấu lâu dài, thực hiện chủ trương của Ủy ban kháng chiến hành chính
Huyện, tự vệ, dân quân, du kích các địa phương vừa tổ chức chiến đấu giam chân
địch tại chổ, vừa phân nhỏ lực lượng rút lui vào các thôn, xóm. Trong các địa
phương nơi chiến sự nổ ra khi thấy sức mạnh tấn công của quân Pháp, một số cán
bộ và nhân dân tỏ ra hoang mang, lo sợ. Nhiều nơi, nhân dân và một số cán
bộ tự động bỏ làng kéo nhau tản cư về các vùng chưa có chiến sự để lánh
nạn.Tình hình đó đã gây cho ta nhiều lúng túng, khó khăn trong công tác tư
tưởng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức kháng chiến, tổ chức bám đất, bám dân
đánh địch.
Sau hai gần ngày đêm hành quân đánh phá, chiều ngày 29-3-1947, hai cánh quân
thủy bộ của Pháp đã hợp quân đánh vào Hoàn Lão. Đến tối ngày 29-3-1947, toàn bộ
vùng đồng bằng ven biển Bố Trạch từ Thanh Khê vào đến Phúc Lộc-Liên Dinh bị
quân Pháp chiếm đóng.
Như vậy chỉ trong vòng ba ngày từ 27 đến 29-3-1947, quân Pháp đã đánh chiếm
được thị xã Đồng Hới, vùng phụ cận và phần lớn các xã vùng đồng bằng ven biển
huyện Bố Trạch. Chúng ép lực lượng kháng chiến của ta “ lên núi”, kiểm soát,
khống chế toàn bộ trục đường giao thông huyết mạch quốc lộ 1A, cắt liên lạc
giữa vùng đồng bằng ven biển với các xã vùng trung du, miền núi. Bước đầu huyện
Bố Trạch tạm hình thành hai: vùng tạm bị chiếm và vùng du kích tự do.
Đứng trước tình hình phức tạp của những ngày đầu kháng chiến. Ngày 31-3-1947,
tại khu căn cứ Phú Định, Ban chấp hành Chi bộ An Lão họp khẩn cấp. Sau khi phân
tích đánh giá lại tình hình trong huyện, nghiêm khắc phê phán những biểu hiện
chủ quan, giao động chạy dài của của một số cán bộ đảng viên và những sai lầm
trong công tác lãnh đạo, tổ chức chiến đấu của một số Ủy ban kháng chiến hành
chính các xã. Hội nghị chỉ rõ: Phải làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân Bố
Trạch nhận thức được đường lối kháng chiến của Đảng; Các cấp chính quyền phải
có được chủ trương và biện pháp tổ chức kháng chiến phù hợp với địa phương,
phải tiến hành cuộc kháng chiến tại chổ có như vậy mới huy động được sức người,
sức của đánh bại các âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Hội nghị đưa ra chủ
trương: Đưa đồng bào hồi cư về quê củ.
Cán bộ đảng viên, tự vệ, dân quân, du kích phải trở về bám dân, bám làng tổ
chức kháng chiến.
Rút
mỗi làng 5 người về huyện thành lập trung đội du kích thường trực của Huyện.
Hội nghị phân công các đồng chí trong cấp ủy về các địa phương cùng tham gia
cùng chính quyền cơ sở củng cố phong trào, tổ chức lực lượng kháng chiến.
Chủ trương đưa dân, cán bộ đảng viên,
tự vệ, dân quân, du kích trở về lại quê củ trong vùng địch tạm chiếm đóng. Đây
là một chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời, đầy sáng tạo của Cấp ủy Huyện Bố
Trạch trong việc vận dụng đường lối “ kháng chiến, kiến quốc” của Đảng
vào thực tế địa phương ngay trong ngày đầu của cuộc kháng chiến. Điều đó đã đáp
ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ kháng chiến, tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng
và đánh địch tại chổ. Chính từ Chủ trương “ Bám đất, bám làng” chiến đấu, mà
suốt cả cuộc kháng chiến “Chín năm”, huyện Bố Trạch không bao giờ mất đất, mất
dân, ở đâu có dân ở đó có Đảng, có Kháng chiến, có đánh địch. Việc ngay từ ngày
đầu kháng chiến, Cấp ủy Huyện đã đưa ra được những nhiệm vụ mang tính chiến
lược đã giãi quyết kịp thời những vướng mắc, nhận thức sai lầm về tư tưởng sợ
địch, cầu an, chạy dài trong một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân. Qua
đó,bước đầu củng cố lòng tin đối cán bộ đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, Chính phủ, Mặt trận Việt Minh, của chủ tịch Hồ Chí Minh mà trực tiếp
là của Cấp ủy Huyện, của đội ngũ cán bộ đảng viện trên địa bàn huyện đối với
công cuộc kháng chiến; đồng thời giãi đáp, tháo gỡ những khó khăn ,lúng túng
đối với chính quyền, các lượng lượng kháng chiến ở địa phương trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức kháng chiến tại chổ.
Thực hiện chủ trương của cấp ủy Huyện, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban kháng
chiến hành chính và Mặt trận các làng dọc tuyến đường quốc lộ 1A, từ Liên Dinh,
Phúc Tự, Hoàn Lão, Đồng Cao, Lý Hòa đến Thanh Khê, hàng trăm cán
bộ, đảng viên và nhân dân sau những ngày chạy giặc đã kêu gọi, động viên nhau
lần lượt trở về quê củ, tổ chức lao động sản xuất, củng cố bộ máy lãnh đạo
kháng chiến và xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ chiến đấu taị chổ đánh địch
lâu dài. Đi về cùng cán bộ, đảng viên và nhân dân, bộ đội đại đội 5 thuộc Chi
đội Lê Trực đảm trách chiến đấu vùng Bố Trạch cũng phân tán về các địa phương xây
dựng cơ sở kháng chiến và hướng dẫn, dìu dắt lực lượng dân quân, tự vệ cùng
chiến đấu.
Thực hiện Chủ trương của Cấp ủy Huyện về xây dựng lực lượng
vũ trang tập trung của huyện, ngay sau khi điều động đủ số lượng dân quân, tự
vệ của ba thôn: Thanh Khê, Lý Hòa và Hoàn Lão. Đầu tháng 4-1947, tại Cồn
Cháy, xóm Rẫy thuộc làng Hòa Duyệt “ Trung đội du kích thường trực” ( còn gọi
là trung đội biệt động đội) của huyện Bố Trạch gồm có 32 cán bộ, chiến sỹ chính
thức được thành lập do đồng chí Trần Cảm phụ trách(*Đồng chí Trần Cảm, người
làng Thanh Khê, nay là xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch)
Sau khi đánh chiếm được vùng đồng bằng bằng ven biển từ Liên Dinh đến
Thanh Khê; thực hiện âm mưu mở rộng vùng chiếm đóng, đẩy lực lượng kháng chiến
của ta lên núi, quân Pháp tập trung lực lượng tiến đánh vùng trung du phía Tây
huyện Bố Trạch. Ngày 1-4-1947, quân Pháp đánh chiếm Thọ Lộc; ngày 4-4-1947,
chúng đánh Hòa Duyệt,Vạn Lộc, Âm Tiến...Tại làng Hòa Duyệt ( nay xã Tây Trạch),
thực dân Pháp điều động hơn 200 quân, có không quân yểm trợ ồ ạt từ ba hướng
Hoàn Lão đánh lên, Sen Bàng đánh ra và Phú Định đánh về tấn công vào xóm
Cồn Rậy. Mặc dù đứng trước sức mạnh tấn công ồ ạt của quân Pháp; Nhân
dân, dân quân, du kích Hòa Duyệt phối hợp chặt chẽ với bộ đội đại đội 5, chi đội Lê Trực không nao núng, bình tỉnh, ngoan
cường tổ chức đánh trả các đợt phản công của địch. Quyết không để cho quân Pháp
đánh chiếm làng, từ trong thế trận được bố trí sau các lũy tre, đụn rơm, gốc
cây, bờ rào, trong hầm, hào chiến đấu bộ đội, dân quân, du kích và dân làng Hòa
Duyệt bất chấp bom đạn, nhất tề đồng loạt hô xung phong, toàn dân làng ào lên
quyết một phen sống chết cùng quân thù. Tiếng hô xung phong vang dậy cả đất
trời “
...ông già tóc dài...hăng hái vác dao mác xung phong. Những người đàn bà thì
vác dựng cửa ( que gỗ chống cửa) hô trong lúc nhà họ đang cháy, con họ khóc..”, “anh Lê Dương, một nông dân chất phác
cầm cây rạ ( cây rựa) đi rừng lao thẳng vào chém chết tên lính Pháp đang châm
lữa đốt nhà hàng xóm”. Tiếng hô xung phong của bộ đội, du kích và dân làng Hòa
Duyệt vang
dậy cả một góc trời thể hiện khí thế “ Toàn
dân kháng chiến... đoàn người tiến lên hô đâm đâm, giết giết không kể đến cái
chết gần kề bên...” lẫn trong tiếng gầm rú của máy bay, tiếng nổ của bom đạn,
tiếng trống, tiếng mõ, tiếng tù và, đã làm cho quân Pháp thất hồn, bạt vía,
hoảng loạn, cuống cuồng tìm đường trốn chạy. Nhiều tên Pháp chui cả vào chuồng gà, chuồng lợn,
rúc cả vào đụn rơm để trốn.*( những câu trong ngoặc kép được trích trong nhật
ký kháng chiến của đồng chí Quách Xuân Kỳ). Trước khí thế và sức mạnh chiến đấu
của quân và dân làng Hòa Duyệt buộc quân Pháp phải kéo quân rút chạy khỏi Hòa
Duyệt, để lại trên trận địa 5 xác lính Pháp.(* Trận đánh này có 6
người dân bị địch bắn chết)
Chiến thắng Hòa Duyệt là chiến thắng lớn đầu tiên của quân và dân huyện Bố
Trạch. Chiến thắng này bước đầu ta rút ra được một số bài học kinh nghiệm về
xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện để đánh địch. Bởi khi thế địch mạnh, ta yếu, để đánh thắng địch phải
biết dựa vào sức dân, lợi dụng địa hình, địa vật tiến hành du kích chiến, vận
động chiến để tiếp cận địch và tiêu diệt địch. Qua chiến thắng Hòa Duyệt, khẳng
định ngay từ đầu chủ trương “ Bám dân, bám làng” kháng chiến của Cấp ủy Huyện
là hoàn toàn đúng đắn, nó thể hiện sự vận dụng sáng tạo đường lối kháng chiến,
đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng: bí mật, bất ngờ, dựa vào sức mạnh tại chổ, lấy ít đánh nhiều, lấy thô sơ đánh hiện
đại,toàn dân tham gia đánh giặc. Chiến thắng Hòa Duyệt càng củng cố thêm
niềm tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng, niềm tin vào vai trò lãnh
đạo của Cấp ủy Huyện, tin vào khả năng dám đánh, biết đánh và đánh thắng kẻ thù
xâm lược Pháp.
Trên bình diện chung
cả tỉnh ta, sau khi đánh chiếm được thị xã Đồng Hới, địch củng cố lực lượng,
phối hợp với quân Pháp ở Đông Hà ( Quảng Trị) chia thành nhiều hướng, nhiều mũi
đánh chiếm các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy, Bố Trạch, Quảng Trạch... đến ngày
20-4-1947, địch tấn công lên huyện Tuyên Hóa nhưng bị quân ta chặn đánh quyết
liệt, buộc chúng phải rút lui. Như vậy trong 20 ngày ( từ 27-3 đến 18-4-1947)
bộ đội chi đội Lê Trực và tự vệ,
du kích, ân quan các địa phương trong toàn tỉnh đã anh dũng chiến đấu, ngăn
chặn bước tiến của Pháp, tiêu diệt 460 tên địch...Đối với thực dân Pháp kết
thúc đợt tấn công đánh chiếm Quảng Bình, quân Pháp bước đầu đã kiểm soát được
miền duyên hải đồng bằng ven biển, kiểm soát và khống chế quốc lộ 1A từ Hạ Cờ
đến hữu ngạn sông Gianh và một phần các trục đường giao thông thủy, đường bộ
nối từ quốc lộ 1A lên các vùng phía Tây của các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Đồng
Hới, Bố Trạch và Quảng Trạch.
Đối với huyện Bố Trạch, sau những thất bại đánh lên vùng trung du phía Tây,
nhất là sau thất bại nặng nề ở Hòa Duyệt và các mặt trận khác trong toàn tỉnh,
quân Pháp ở Bố Trạch từ chổ thực hiện “ đánh nhanh, thắng nhanh” buộc phải
chuyển sang đánh lâu dài với ta; từ thế tiến công ồ ạt phải quay sang thực hiện
âm mưu “ bình định” để giành dân và tìm cách bao vây, bóp nghẹt, cắt đứt mọi
nguồn cung cấp nhân tài vật lực của ta từ vùng tạm bị chiếm đối với vùng tự do
và chuẩn bị điều kiện để đánh ra vùng tự do mở rộng vùng chiếm đóng. Để thực
hiện được mưu đồ trên, thực dân Pháp một mặt vừa đẩy mạnh các hoạt động quân sự
mặt khác chúng tập trung lực lượng xây dựng bộ máy tay sai ở những chúng kiểm
soát. Thực dân pháp đã đưa tên việt gian Nguyễn Hữu Trũng *( Nguyễn
Hữu Trũng người làng Lộc Đại nay là phường Lộc Ninh thành phố Đồng Hới)về làm
huyện trưởng Bố Trạch và chọn lựa những tên địa chủ cường hào và con em của
chúng thành lập các ban hội tề, đội hương vệ, bảo vệ quân. Dựa vào thực dân
Pháp, bọn tay sai ráo riết hoạt động, chúng ra sức ức hiếp dân chúng, lùng sục,
theo dõi, bắt bớ cán bộ, bộ đội, du kích ta về làng hoạt động.
Khác với tình hình tổ chức kháng chiến ở huyện Bố Trạch, cán bộ, đảng viên
triệt để thực hiện chủ trương của Cấp ủy huyện về “ Bám dân, bám làng” chiến
đấu thì tại các huyện, thị: Lệ Thủy, Quảng Ninh, thị xã Đồng Hới cuộc kháng
chiến đứng trước những thử thách, khó khăn vô cùng lớn: Cơ quan lãnh đạo các
cấp và lực lượng vũ trang bị địch đẩy lên núi và bị cô lập với vùng đồng bằng
tạm bị chiếm; bị tách khỏi dân...Trước tình hình đó, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng
tại chiến khu Thuận Đức ( tháng 5-1947) chủ trương cho dân hồi cư; cán bộ, bộ
đợi, dân quân du kích phân tán nhỏ lực lượng, vừ bám dân xây dựng cơ sở kháng
chiến, vừa tổ chức đánh địch trong vùng địch hậu. Đồng thời, Hội nghị quyết
định chuyển hướng hoạt động, phân chia địa bàn tỉnh thành ba vùng và phân công
các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh ủy về phụ trách và trực tiếp lãnh đạo
kháng chiến các địa phương trong vùng được phân công. Khu Bắc bao gồm các làng
xã nằm ở bờ Bắc sông Gianh, do đồng chí Thanh Hà – Bí thư tỉnh ủy phụ trách; khu
vực Trung từ bờ Nam sông Gianh vào đến bờ Bắc sông Long Đại do đồng chí Hoàng
Văn Diệm-Chủ tịch tỉnh phụ trách; khu Nam từ nam sông Long Đại vao đến giáp
huyện Vĩnh Linh do đồng chí Hồng Xích Tâm phụ trách.
Thực hiện chủ trương Hội nghị của Cấp ủy huyện tại Phú Định ( 31-3-1947) và từ
bài học toàn dân đánh giặc,giữ làng ở Hòa Duyệt (4-4-1947). Để tạo chổ đứng
chân lâu dài cho các cơ quan lãnh đạo của Huyện và nơi cung cấp các tiềm lực
cho kháng chiến. Cấp ủy Huyện đã chủ trương xây dựng các căn cứ kháng chiến ở
Phú Định, Bồng Lai, khe Ồ Ồ,Trốc ...Từ những căn cứ này là nơi đặt các cơ quan
lãnh đạo kháng chiến của huyện, nơi đưa đồng bào ở vùng tạm bị chiếm lên lập
trại tản cư, nơi để đồng bào tản cư tăng gia sản xuất, tự cung tự cấp lương
thực, thực phẩm, phát triển phong trào toàn dân tham gia kháng chiến, nơi cung
cấp sức người sức của cho kháng chiến. Đồng thời Cấp ủy huyện quyết định xây
dựng làng Cự Nẫm trở thành làng chiên đấu và giao cho đồng chí Nguyễn Chánh Nhì
– Bí thư chi bộ đi khảo sát địa hình và tổ chức thực hiện.
Cự Nẫm là một làng thuần nông, là một trong những vựa lúa của huyện Bố Trạch;
làng Cự Nẫm nằm trên trục đường tỉnh lộ số 2 từ Hoàn Lão lên Phong Nha và vùng
tự do Tuyên Hóa. Vì vậy, Cự Nẫm có một vị trí chiến lược cả quân sự và kinh tế
hết sức quan trọng. Trong chiến tranh xâm lược, muốn đánh bại ý chí chiến đấu
của quân và dân Bố Trạch và nhanh chóng đánh chiếm được các xã miền Tây huyện
Bố Trạch, từ đó đánh chiếm vùng tự do huyện Tuyên Hóa, thực dân Pháp quyết đưa
quân đánh chiếm bằng được làng Cự Nẫm. Với vị trí chiến lược đó của làng Cự
Nẫm, sau khi có quyết định của Cấp ủy Huyện, đồng chí Nguyễn Chánh Nhì,
đã chỉ đạo 7 đồng chí đảng viên của chi bộ đảng làng Cự Nẫm phối hợp với bộ đội
đại đội 5 của Chi đội Lê Trực và dân làng rào làng chiến đấu.
Làng được rào bằng hàng ngàn cây tre ri, đầy gai nhọn, được đan ken dày từng
lớp, tạo thành ba tuyến 1,2 và 3, mỗi tuyến cách nhau từ 20 đến 30m, giữa các
tuyến được bố trí hầm trú ẩn, công sự chiến đấu, hào giao thông nối các trận
địa và các tuyến với nhau; trong đó tuyến 3 kiên cố nhất. Tại tuyến 3, ngoài hệ
thống hàng rào, hầm chiến đấu có hệ thống hào giao thông nối về các thôn, xóm
và sở chỉ huy đặt tại Đình làng. Để đi vào làng phải qua các cổng làng, phía ngoài
các cửa ra vào của mỗi tuyến đều được cắm chông. Toàn làng có 9 vọng gác đặt
trên các cây cao và một điếm canh làm nhiện vụ phát hiện địch từ xa và
kiểm soát người qua lại. Mỗi vọng gác có một hiệu lệnh riêng để báo tin địch
đến và báo yên cho mọi người khi địch rút khỏi làng. Hiệu lệnh chỉ huy chiến
đấu là tiếng trống còn gọi là “hồi trống lệnh”. Lực lượng dân quân, du kích
được biên chế thành 3 trung đội, trong đó có một trung đội du kích tập trung;
một tiểu đội bộ đội vệ quốc đoàn của Chi đội Lê Trực tăng cường ngoài ra có một
tổ trinh sát, tổ tình báo, đội cứu thương, đội vận tải, tiếp tế lương
thực...lực lượng kháng chiến của làng người nào việc đó, các mẹ, các chị tham
gia vào hội mẹ chiến sỹ lo vận động mọi người đóng góp lương thực, thực phẩm,
nấu cơm tiếp tế cho bộ đội, du kích khi chiến sự nổ ra... các cụ phụ lão tham
gia cùng dân quân, du kích tuần tra canh gác..Cả làng trăm người một ý chí đánh
giặc giữ làng.. chỉ trong một thời gian ngắn rào làng đã biến Cự Nẫm, một làng
quê yên bình trở thành một làng chiến đấu chốt chặn con đường tiến công của
quân Pháp lên miền Tây huyện Bố. Dưới sự lãnh đạo của Cấp ủy huyện và Chi
bộ đảng, dựa vào thế trận bày sẵn, ngày 7-5-1947 du kích Cự Nẫm phối hợp với bộ
đội Chi đội Lê Trực anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc hành quân của một trung
đội lính Pháp, tiêu diệt 10 tên địch làm thất bại âm mưu tiêu diệt lực lượng
kháng chiến, lập hội tề và khai thông tuyến đường tỉnh lộ 2 lên miền tây Bố
Trạch. Chỉ tính từ đầu tháng 5-1947 đến cuối năm 1947, quân dân Cự Nẫm phối hợp
chặt chẽ với bộ đội đánh bại 25 cuộc hành quân lớn nhỏ của quân Pháp đánh vào
làng... Nhiều trận đánh thắng lớn ở Bãi Trượt, Rú Nguốn, Cồn Nàn, Đồi Vàng, Cồn
Tro...làm cho quân Pháp kinh hoàng khiếp sợ. Làng chiến đấu Cự Nẫm – một điểm
chốt lợi hại của ta trên tuyến đường từ Hoàn Lão lên Phong Nha- Troocs. Cự Nẫm
thật sự là một “ Làng chiến đấu kiểu mẫu ở Quảng Bình. Dân làng đã tổ chức được
nhiều đội du kích thiện chiến, gan dạ. Ủy ban kháng chiến làng đã biết huy động
lực lượng dân chúng trong làng tham gia vào cuộc kháng chiến. Do đó, làng đã
dương đầu được với quân Pháp từ ngày xảy ra tác chiến ở Quảng Bình” *( Báo
cáo tình hình kháng chiến liên khu 4 ( tháng 1, 2,3-1948). Noi
gương chiến đấu của quân và dân Cự Nẫm, dân quân, du kích và nhân dân các thôn,
làng trong huyện vừa tập trung xây dựng , củng cố, bố trí lực lượng sẵn sàng
chiến đấu và tổ chức đánh địch. Ngày 27-5-1947, một tổ du kích làng Hoàn Lão do
anh Phan Dung chỉ huy, bằng vũ khí thô sơ đại đao, mã tấu, cuốc...đánh địch
ngay tại nhà anh Thiện (ở gần ngả ba Bệnh viện), giết chết tại chổ 2 tên Pháp,
ba tên sống sót hoảng loạn nhảy qua bờ rào tháo chạy về đồn. Ngày 3-6-1947, qua
theo dõi các hoạt động của địch, một tổ du kích Hoàn Lão gồm có anh Mè và anh
Méo đã tổ chức phục kích trên đường tỉnh lộ 2, gần cầu Hói đánh bọn địch đi càn
phá hủy một xe quân sự, tiêu diệt 20 tên Pháp.
Cuộc chiến đấu của của quân và dân Bố Trạch trong những tháng đầu năm 1947 đã
để lại nhiều tấm gương anh dũng, ngoan cường xả thân vì dân, vì nước như các
anh Hoàng Đống, Nguyễn Cúc, Trần Trực Nguyễn Kính, Nguyễn Khắc Trung, Trần
Quyền...Hình ảnh anh Hoàng Đống người làng Lý Hòa – Chính trị viên Ban dân quân
Huyện Bố Trạch hy sinh trong ngày 3-6-1947 đã nói lên tinh thần, khí tiết của
người cán bộ cách mạng trước họng súng của kẻ địch “ Được lệnh trên
triệu tập, ba đồng chí huyện đội và chủ tịch huyện vội
đi ngay lên Khương Hà. Đi với họ còn có một cứu thương và một liên lạc. Khi đi
qua Nhân Trạch, gặp địch phục kích, nổ súng mỗi người chạy một đường, lạc nhau.
Còn anh Đống chính trị viên và ông Điền chủ tịch bị Pháp bắt. Chúng dẫn hai
người về Vạn Lộc tra tấn. Trước sự đánh đập, bẻ răng, giựt móng tay chân, đống
đều mỉm cười khinh bỉ. Bọn Pháp đưa anh về Hoàn Lão tra tấn tàn bạo hơn: chúng
treo ngược anh lên xà nhà, xẻo từng miếng thịt, anh vẫn điềm nhiên nhìn lũ giặc
và hát bài “ Diệt phát xít”. Chúng liền cắt dây hạ anh xuống nền nhà lột trần
rồi dùng dao cắt đôi dương vật của anh, lấy muối xát vào. Đau và rát không chịu
nỗi, anh rú lên chốc lát rồi trở lại nhìn giặc với ánh mắt căm thù và hát.
Nhưng sức đã kiệt, giọng hát không còn hùng dũng nữa. Anh chỉ còn sức mắng chửi
lũ giặc, cùng bọn chó săn việt gian bán nước.
Không lung lạc được tinh thần của Đống, giặc liền đưa anh về Lý Hòa, dọc đường
mệt quá, anh ngất đi.
Về đến Lý Hòa, giặc tiếp tục tra tấn anh bằng những đòn tàn ác hơn. Nhưng
Đống vẫn cười khinh bỉ giặc. Lúc này anh đã sẵn sàng cho cái chết đến với nét
mặt bình thản.
Không làm gì nỗi anh, bọn Pháp tức tối mang anh ra bắn. Đứng trước bọn Pháp
đang chuẩn bị giết mình, Đống vẫn cười nụ cười bất diệt. Mặc dầu sức đã tàn,
anh vẫn hát lên những bài ca cách mạng.
Phút cuối cùng, anh giơ tay vẩy chào vĩnh biệt đồng bào bị giặc bắt ra xem
chúng bắn Việt Minh hòng uy hiếp tinh thần dân chúng. Giặc bắn anh mà chúng còn
run tay sợ sệt. Viên đạn thứ nhất lệch trúng mang tai, máu chảy ròng ròng anh
vẫn chưa dứt bài tiếng quân ca. Viên đạn thứ hai trúng vai, anh vẫn chưa chết,
dùng tàn lực hô to: “Việt Nam tự do, độc lập muôn năm”. Việ đạn thứ ba
trúng người, anh vẫn gào lên: “ Cụ Hồ muôn năm”, “ Chiến sỹ Việt Nam bất
diệt”. Giặc hoảng sợ bắn loạn xạ vào anh. Kết thúc cuộc đời anh Đống bằng một
tiếng cười nhưng nghe như tiếng rú căm hờn vang lên giữa bầu trời ảm đạm âm u
như để vĩnh biệt non sông đất nước. Việt Nam vừa mất đi một đứa con yêu dấu” *(
Nhật ký của đồng chí Quách Xuân Kỳ năm 1947)
Có thể nói rằng sau khi địch đánh chiếm được vùng được vùng đồng bằng ven biển,
lực lượng kháng chiến của ta phần lớn tập trung về vùng trung du và miền núi,
nhưng không phải vì thế ta mất địa bàn, mất thế chủ động trong đánh địch ở
những nơi địch chiếm giữ. Du kích, bộ đội ta có thể dựa vào dân đánh địch bằng
lối đánh du kích chiến. Do đó về phía ta, giai đoạn chiến đấu phòng ngự về căn
bản tạm chấm dứt để mỡ đầu cho giai đoạn chiến tranh du kích ở đồng bằng, biến
hậu phương địch thành vùng tranh chấp giữa ta và địch. Vì vậy, sau khi một bộ
phận cán bộ và các cơ quan kháng chiến của ta rút dần ra vùng du kích thì ta đã
bố trí một lực lượng lớn cán bộ, dân quân, du kích trung kiên, có nhiều kinh
nghiệm trong công tác vân động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng và kinh
nghiệm chiến đấu ở lại đồng bằng phối hợp với bộ đội chủ lực bám dân, bám làng
làm công tác vận động quần chúng, đánh du kích và hướng dẫn cho dân quân, quần
chúng đánh địch,thể hiện được tư duy quân sự sắc bén của cấp ủy Đảng và Ủy ban
kháng chiến Huyện và các địa phương.
Sau những chiến thắng trên mặt trận quân sự của quân và dân các địa phương vùng
sau lưng địch, cuộc kháng chiến ở Bố Trạch bước vào giữa năm 1947 chuyển sang
một thế trận mới; Thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng ổn định và phát
triển mạnh; tổ chức cơ sở Đảng và các lực lượng kháng chiến cấm sâu và phát
triển sâu rộng trong vùng địch kiểm soát. Tòan huyện Bố Trạch xuất hiện ba vùng
chiến lược đan xen vào nhau theo thế “ cài răng lược”.
Vùng địch tạm chiếm đóng
bao gồm hầu hết các làng, xóm vên biển và dọc trục đường quốc lộ 1A, đường tỉnh
lộ 2 từ Hoàn Lão lên Thọ Lộc.
Vùng du kích gồm các
làng, xóm Lý Nhân Naf, m, Lý Nhân Bắc, Hòa Duyệt, Hỷ Duyệt, Hoàn Phúc, Van Lộc,
Bồ khê Phường, Thanh Ba, Cao Nguyên..
Vùng tự do có Cự Nẫm,
Khương Hà, Cổ Giang, Cù Lạc, Phú Định, Bồng Lai, Phú Kinh, Phú Hữu...
II-LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG BÁM ĐẤT, BÁM DÂN, LÀM NỒNG CỐT TRONG PHONG TRÀO XÂY DỰNG LÀNG XÃ CHIẾN
ĐẤU, ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN ĐỊA BÀN.
Từ tháng 5-1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân
huyện Bố Trạch đã có những bước phát triển mới. Về phía địch mặc dù chúng vẫn
còn rất mạnh và nuôi dã tâm đánh chiếm bằng được toàn bộ huyện Bố Trạch, nhưng
lúc này chúng vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân và dân ta nên chúng
không còn dám hung hăng mở các cuộc hành quân tấn công ồ ạt theo lối “ đánh nhanh,
thắng nhanh” nhằm đánh chiếm các mục tiêu quân sự chiến lược, chiếm cứ đất đai,
dân chúng mà chuyển sang càn quét “ bình định” nhằm tiêu diệt lực lượng kháng
chiến và thiết lập bộ máy ngụy quân, ngụy quyền.Về phía ta, cuộc chiến
đấu ngăn chặn địch tiến công tạm thời chấm dứt, chuyển qua đẩy mạnh chiến tranh
du kích, chống càn quét, tiến tới diệt tề, trừ gian, bảo vệ cơ sở kháng chiến,
bảo vệ tính mạng,tài sản của nhân dân. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra
trên hai hình thái: địch chiếm đóng, ta phá chiếm đóng, địch càn quét, ta chóng
càn quét, địch lập tề, ta phá tề, địch phá hoại cướp bóc, ta chóng phá hoại
cướp bóc... cuộc chiến đấu diễn ra trong thế giằng co, cài răng lược, dai dẵng,
triền miên, tàn khốc... đòi hỏi cán bộ đảng viên và nhân dân ta phải có tinh
thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, sự phối hợp chặt chẻ giữa các lực lượng
chiến đấu bộ đội, dân quân, du kích, sự chi viện, phối hợp giữa các vùng tự do,
du kích và tạm bị chiếm... sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính
trị, giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh kinh tế, chính trị , văn hóa, địch
vận trong đó lấy đấu tranh quân sự là chính. Cuộc chiến đấu đó muốn giành được
thắng lợi phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Cấp ủy Huyện
và của các tổ chức Đảng, của ban chỉ huy quân sự các cấp. Để đảm bảo có dược
những thắng lợi trên chiến trường, điều côt yếu là phải xây dựng được lực lượng
vũ trang mà cụ thể đối với Bố Trạch phải xây dựng được lực lượng dân quân, du
kích, bộ đợi đia phương đủ mạnh như lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh trong
thư gửi Hội nghị dân quân lần thứ nhất “ Dân quân, tự vệ và du kích là lực
lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc.
Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì
địch nào cũng tan rã”*( Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc
gia, H 2002, tập5, tr 132)
Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt và vai trò chiến lược của dân quân, tự vệ
và du kích trong chiến tranh giãi phóng, Cấp ủy Huyện Bố Trạch và chính quyền
các cấp từ Huyện đến làng xã đều chăm lo xây dựng lực lượng dân quân, du kích
cả về tổ chức, quân số, chính trị tư tưởng. Từ vùng tự do đến vùng du kích,
ngay cả vùng địch tạm chiếm, lực lượng du kích bí mật vẫn được thành lập và tích
cực hoạt động. Lực lượng đân quân, du kích các xã được phân công nhiệm vụ cụ
thể, rõ ràng; lực lượng du kích có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ làng, bảo vệ cán
bộ về hoạt động, lực lượng dân quân có nhiện vụ phục vụ chiến đấu rào làng, đào
hầm hào, công sự, vận tải tiếp tế lương thực thực phẩm, tải thương...Để đáp ứng
yêu cầu của cuộc chiến đấu và làm nồng cốt trong việc xây dựng lực lượng vũ
trang của Huyện, sau khi rà soát, tuyển chọn một số dân quân, du kích và cán bộ
quân sự các xã, tháng 6-1947 tại căn cứ kháng chiến Ồ Ồ ( Cổ Giang) đại đội 4 “
du kích thường trực” của huyện Bố Trạch chính thức được thành lập, do đồng chí
Hoàng Tấn Ất phụ trách đại đội trưởng, đồng chí Chín phụ trách chính trị viên.
Đại đội 4 có 3 trung đội 1, 2 và 3; trung đội 1, do đồng chí Cao Tức phụ
trách trung đội trưởng, đồng chí Kỉnh phụ trách trung đội 2 và trung đội 3 do
đồng chí Đô phụ trách; vũ khí trang bị chủ yếu là đại đao, mã tấu và một số
súng trường, lựu đạn thu được của địch.
Ngày 12-8-1947, Tỉnh ủy họp Hội nghị quán triệt và triễn khai thực hiện quyết
định của của Hội nghị quân chính Khu 4 về việc hợp nhất Ủy ban kháng chiến và
Ủy ban hành chính thành Ủy ban kháng chiến hành chính; cơ cấu một cán bộ
quân sự trong Ủy ban bảo vệ các cấp; kiện tòan bộ máy chính quyền để tập trung
cao nhất cho cuộc kháng chiến. Cùng với quyết định bổ sung cán bộ, thành lập
Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, xã đội. *( Từ tháng 3-1947, Chính phủ
quyết định thành lập Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, xã đội thuộc Ủy ban kháng
chiến các cấp – nguồn tài liệu: 55 năm quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb
QĐND, tr 50); bổ sung lực lượng cho các trung đội du kích thường trực do
các huyện đội trực tiếp chỉ huy; Hội nghị Tỉnh ủy cũng quyết định: Đẩy mạnh
công tác phát triển Đảng trong lực lượng vũ trang địa phương, nhất là các đơn
vị chiến đấu; tổ chức chi bộ Đảng (tổ Đảng) trong các đơn vị, cơ quan Tỉnh đội,
Huyện đội; lấy lực lượng du kích thường trực làm nồng cốt để phát triển du kích
chiến tranh ở vùng địch hậu, tích cực trừ gian diệt tề... Ngày 1-10-1947, thi
hành sắc lệnh số 91/SL của Chính Phủ về tổ chức lại bộ máy chính quyền các cấp,
được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Tỉnh Quảng Bình, Cấp
ủy huyện Bố Trạch đã tập trung lãnh đạo việc hợp nhất Ủy ban hành chính và Ủy ban
kháng chiến thành Ủy ban kháng chiến hành chính; đồng chí Lưu Trọng Lạc được cử
làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện. Trong thời gian
này để chuẩn bị một bước cho việc tổ chức lại các làng xã trên địa bàn huyện;
Ủy ban kháng chiến hành chính Tỉnh quyết định: cắt thôn Đá Mài của huyện Quảng
Ninh và các thôn.................... của huyện Quảng Trạch sát nhập về huyện Bố
Trạch. Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến đối với cơ sở kịp thời,
chính xác; Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Bố Trạch đã triễn khai tổ chức,
xắp xếp 22 làng xã, sát nhập thành 8 xã: Nam Trạch, Trung Trạch, Hải Trạch, Bắc
Trạch, Tây Trạch, Sơn Trạch, Phúc Trạch và Thượng Trạch.*( Tính theo đơn vị
hành chính hiện tại các xã Nam Trạch gồm: Nhân Trạch, Lý Trạch, Nam Trạch và
thôn Đá Mài; xã Trung Trạch gồm: Trung Trạch, Đại Trạch; xã Hải Trạch gồm: Hải
Trạch, Phú Trạch, Đồng Trạch, Đức Trạch, Hoàn Trạch, Vạn Trạch; xã Bắc Trạch
gồm: Bắc Trạch, Thanh Trạch, HạTrạch, Mỹ Trạch; xã Tây Trạch gồm: Tây Trạch,
Hòa Trạch và vùng Phú Định; xã Sơn Trạch gồm: Cự Nẫm, Hưng Trạch, Liên Trạch,
Sơn Trạch; xã Phúc Trạch gồm: Phúc Trạch, Lâm Trạch, Xuân Trạch; xã Thượng
Trạch gồm: Tân Trạch, Thượng Trạch). Cùng với việc tổ chức lại bộ máy chính
quyền, sau khi được tỉnh bổ sung cán bộ, trung tuần tháng 10-1947, Huyện đội Bố
Trạch chính thức được thành lập tại thôn Khương Hà; đồng chí Đặng Rợ ( Đức) phụ
trách huyện đội trưởng, đồng chí Phan Khắc Hy phụ trách chính trị viên thay
đồng chí Hoàng Đống hy sinh*( đồng chí Hoàng Đống hy sinh ngày 3-6-1947),
đồng chí Hoàng Tấn Ất huyện đội phó. Về tổ chức Đảng, căn cứ vào quy định của
Tỉnh ủy, Cấp ủy Huyện quyết định thành lập chi bộ cơ quan Huyện đội ( có
......đảng viên), do đồng chí Yến - chính trị viên Huyện đội làm Bí thư. Chi bộ
cơ quan Huyện đội ( kể cả Chi bộ đại đội du kích thường trực của huyện), trực
thuộc Cấp ủy huyện về mặt tổ chức và toàn bộ hoạt động đều đặt dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của Cấp ủy Huyện.*( Sdd - Sau Hội nghị cán bộ
Trung ương lần thứ 5, ngày 20-10-1948, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra nghị
quyết xã định: các liên chi bộ, chi bộ cơ quan, đơn vị bộ đội địa phương chuyển
về trực thuộc Tỉnh ủy, Huyện ủy, Thị ủy ( Nguồn: Lịch sử công tác Đảng,
công tác chình trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam ( 1944-2000) Nxb QĐND, H-2002,
tr 181).
Sau khi thực hiện sắc lệnh số 91/SL của Chính Phủ, hệ thống tổ chức Chính quyền
và tổ chức Đảng được xắp xếp, kiện toàn tinh, gọn phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ. Mỗi xã có một Chi bộ Đảng, mỗi thôn có một phân chi bộ; các cơ quan
quan trọng của huyện đều có Chi bộ Đảng. Đến tháng 9-1947, toàn Huyện có 7 chi
bộ xã và 5 chi bộ cơ quan và trong đại 4, gồm có 213 đảng viên. Mặt trận và các
tổ chức đoàn thể quần chúng cũng được kiện toàn. Ban công an Huyện được thành
lập, kiện toàn về mặt tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ủy
ban kháng chiến hành chính huyện và đã đi vào hoạt động có hiệu quả, phát
hiện, xử lý nhiều phần tử tay sai phản động. Lực lượng bộ đội đại đội 4 và dân
quân, du kích các xã được tăng cường về quân số, vũ khí trang bị. Hầu hết các
xã đều đã thành lập được từ 2 đến 4 đại đội du kích tập trung và lực lượng dân
quân, các làng, thôn có ít nhất một tiểu đội du kích. Ban chỉ huy Huyện
đội, bộ đội đại đội 4 và du kích các địa phương đã thành lập tổ quân báo,
tổ trinh sát có nhiện vụ luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm, nắm tình hình đồng
thời xây dựng cơ sở quần chúng thành những “đặc tình” nắm bắt các hoạt động của
địch báo lại cho bộ đội, du kích. Nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi
đều tham gia dân quân, du kích. Các cụ phụ cũng hăng hái gia nhập vào các đội
lão dân quân tuần tra, canh gác bảo vệ thôn, xóm. Nhiều en thiếu niên tham gia
vào đội du kích thiếu niên “ Chim Việt” làm nhiệm vụ liên lạc, theo giõi người
lạ và các hoạt động của địch. Ở thôn Hoàn Lão, chị em phụ nữ tham gia thành lập
“Trung đội nữ du kích Hoàn Lão”.
Bố Trạch có một vị trí chiến lược quân sự hết sức quan trọng. Chính vì vậy khi
đánh vào Bố Trạch, quân Pháp tập trung lực lực lượng đánh vào vùng xung yếu có
tính sống còn đối với công cuộc kháng chiến của ta. Chiếm được vùng đất nào,
chúng cho xây dựng ngay đồn bốt chốt chặn ngay tại đó và lập hội tề nhằm kiểm
soát chặt chẽ mọi hoạt động của dân chúng. Đến giữa năm 1947, quân Pháp đã xây
đồn, đóng chốt các vị trí: Thanh Khê, cầu Lý Hòa, Động Bơi (Thuận Yên), Động
Cao, Hoàn Lão, Phúc Tự, Đại Nam, Liên Dinh, Sen Bàng, Võ Thuận, Vạn Lộc. Với hệ
thống đồng bốt này, quân Pháp kiểm soát được hầu hết trục đường quốc lộ 1A từ
Thanh Khê vào đến Đồng Hới, đường tỉnh lộ số 2 từ Hoàn Lão lên Cự Nẫm, cũng như
nhiều tuyến đường liên thôn, liên xã vùng đồng bằng ven biển ra vùng du kích,
vùng tự do, từ các xã phía Nam huyện Quảng Trạch qua Bố Trạch vào thị xã Đồng
Hới. Từ các vùng đất đánh chiếm được và hệ thống đồn bốt, quân Pháp tạo nên
những bàn đạp lợi hại để tấn công các lực lượng kháng chiến của ta trên khắp
các mặt trận.
Quán triệt triệt để chủ trương của Cấp ủy Huyện “ Bám đất, bám làng” chiến đấu,
ngay sau khi ổn định về tổ chức bộ máy lãnh đạo và cơ chế hoạt động của cơ quan
Huyện đội, Ban chỉ huy huyện đội đã chỉ đạo đại đội 4, phân tán lực lượng theo
các tiểu đội hoặc các tổ chiến đấu “ ba người” luồn sâu về vùng sau lưng địch,
phối hợp với dân quân, du kích các xã và bộ đội đại đội 5 tiểu đoàn 274 ( Chi đội
Lê Trực) tổ chức đánh địch. Với lối đánh “ du kích chiến”, du kích vùng tamj bị
chiếm của các xã Nam Trạch, Trung Trạch, Hải Trạch, Tây Trạch, Sơn Trạch, Bắc
Trạch đã phối hợp với bộ đội đại đội 4, bộ đội chủ lực tỉnh tổ chức nhiều cuộc
phục kích chặn đánh các toán quân địch đi lùng sục ở xóm Hổ, xóm Dài (Hòa
Duyệt), Hoàn Lão, Cự Nẫm... tập kích đánh vào đồn Thọ Lộc, Vạn Lộc, Chánh Hòa,
Võ Thuận, tập kích chặn đánh bọn lính Pháp tuần tiểu trên sông Son, trên đường
quốc lộ 1A gây cho địch nhiều thiệt hại, tiêu diệt và làm bị thương hàng chục
tên địch, thu nhiều vũ khí đạn dược. Trên tuyến sông Son, đoạn qua hai thôn Phú
Kinh và Phú Hữu, bộ đội đại đội 4 cùng du kích đã tổ chức đóng hàng trăm cộc
tre, cộc gỗ xuống lòng sông, tạo thành một bãi cộc chặn ca nô địch. Bộ đội, du
kích còn làm giã thủy lôi thả trên sông, gài mìn, lựu đạn, mìn tự tạo ( địa
lôi) dọc bờ sông và bến đò cầu Ngân Sơn, thế trận cộc, mìn, thủy lôi giã đã làm
gián đoạn nhiều hoạt động tuần tiểu tren sông và đưa quân lên đánh chiếm Cự Nẫm.
Đầu tháng 7-1947, du kích Lý Hòa ( Hải Trạch) phục kích tại thôn Ngoại Hòa,
giết chết tên việt gian đội Hàm có nhiều nợ máu với dân Cự Nẫm. Đầu tháng
9-1947, một tiểu đội bộ đội đại đội 4 do đồng chí Phan văn Liễm chỉ huy đã dùng
mìn tự tạo phục kích địch tại bến đò Ngân Sơn, đánh tan một trung đội lính Pháp
đi lùng, diệt 20 tên.
Hoạt động của bộ đội, dân quân, du kích một mặt vừa ngăn chặn các hoạt động
hành quân đánh phá, mở rộng vùng chiếm đóng và tiêu diệt sịnh lực địch là giảm
ý chí chiến đấu của kẻ địch. Mặt khác hoạt động của dân quân, du kích và bộ đội
đã tạo điều kiện cho các lực lượng kháng chiến phát triển, các hoạt động phục
vụ kháng chiến được tăng cường và ngày càng đảm bảo tốt hơn việc cung cấp nhân
tài, vật lực để cuộc chiến đấu của quân và dân ta phát triển ngày càng mạnh mẽ,
càng đánh càng mạnh, càng đánh, càng thắng. Để đảm bảo yêu cầu vận chuyển hàng
hóa bằng đường thủy phục vụ cuộc chiến đấu của ba tỉnh Bình-Trị-Thiên, Ủy
ban kháng chiến hành chính huyện chỉ đạo các xã Nam Trach, Hải Trạch thành lập
các đội vận tải đường thủy ở các làng Lý Nhân Nam, Lý Nhân Bắc, làng Lý Hòa sẵn
sàng vận chuyển hàng hóa khi có yêu cầu. Trong ba tháng cuối năm 1947, trên mặt
trận vận tải hàng hóa, quân và dân các xã vùng biển Lý Hòa, Lý Nhân Bắc, Lý Nhân
Nam đã vận chuyển được trên 100 tấn gạo, 320 tấn muối, 21.000 mét vãi, 10.000
viên thuốc và hàng chục tấn vũ khí, quân trang, quân dụng từ binh trạm 11 ở Ròn
vào chiến trường nam Quảng Bình. Tại các vùng tạm bị chiếm, mặc dù bị địch
phong tỏa, kiểm soát gắt gao trong việc đi lại, giao thương buôn bán giữa các
vùng, nhưng Hội phụ nữ các làng Lý Hòa, Lý nhân Nam, đã lợi dụng những những
chuyến đi “ buôn làng, sang chợ” để tiếp tế thực phẩm cá, mắm, muối, thước chửa
bệnh, vải, quần áo...ra vùng du kích, vùng tự
do.
Trong điều kiện địch ngày càng tăng cường các hoạt động đánh phá mở rộng vùng
chiếm đóng, nhưng do thấu suốt chủ trương của Cấp ủy Huyện “ Bám đất, bám làng”
kháng chiến. Được sự hướng dẫn của Ủy ban kháng chiến hành chính các địa
phương, nhân dân đẩy mạnh việc tổ chức lao động sản xuất, trồng lúa các loại
hoa màu, rau củ, quả..trồng dâu nuôi tằm, dệt vãi thao, đũi đảm bảo có lương
thực, thực phẩm, vãi mặc thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày và phục vụ cho nhu
cầu kháng chiến trên địa bàn. Ủy ban hành chính kháng chiến Huyện tổ chức các
trại sản xuất ngay tại nơi căn cứ kháng chiến, phát động cán bộ, đảng viên, hội
viên trong các cơ quan sau mỗi chuyến đi công tác ở đồng bằng về phải cùng nhau
tăng gia sản xuất trồng các loại rau, bầu, bí, bắp, khoai sắn tự túc thêm lương
thực, thựcphẩm góp phần giảm bớt phần tiếp tế, cung cấp của nhân dân.
Hoạt động của lực lượng vũ trang Bố Trạch có những bước trưởng thành nhanh
chóng. Tuy chưa tổ chức được những trận đánh lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực
địch, nhưng từ chổ bị động lúng túng, bộ đội, du kích từng bước tiến lên làm
chủ chiến trường, càng đánh càng mạnh đã bược kẻ địch phải dàn mỏng lực lượng
để đối phó, tạo điều kiện cho lực lượng dân quân, du kích và các lực lượng
kháng chiến của ta phát triển, có những chuyển biến tích cực, niềm tin trong
quần chúng nhân dân được củng cố. Đồng thời, qua tổ chức chiến đấu, vai trò
lãnh đạo, chỉ huy của đội ngũ cán bộ trong cơ quan Huyện đội bộ đến đội ngũ cán
bộ các cấp từ đại đội đến trung đội và tiểu đội của Đại đội 4 cũng như cán bộ
xã đội các địa phương, từ cán bộ quân sự đến cán bộ chính trị ngày càng được
tôi luyện và trưỡng thành.
Để đánh giá tình hình sau gần một năm kháng chiến và đề ra chủ trương lãnh đạo
cuộc chiến đấu trong thời kỳ tiếp theo. Cuối tháng 10-1947, Đại hội Đảng bộ
huyện Bố Trạch lần thứ nhất được tổ chức tại nhà ông Huỳnh ở thôn Phong Nha.Sau
khi đánh giá, phân tích những những thắng lợi giành được và những nguyên nhân,
tồn tại, hạn chế đến sự phát triển của phong trào; Từ thực tiển của năm đầu
kháng chiến, Đại hội đề ra chủ trương cụ thể tiếp tục đẩy mạnh công cuộc kháng
chiến trong đó nhấn mạnh một số nhiệm vụ cho mỗi vùng: Vùng tạm chiếm, phải giữ
vững phong trào, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đẩy mạnh
đấu tranh chóng bắt lính, chống cướp phá mùa màng... kiên quyết không hợp tác
với địch, tiến hành diệt tề trừ gian.
Vùng sát địch và vùng căn cứ du kích: Kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự,
đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, bảo vệ dân, bảo vệ làng, đẩy
mạnh sản xuất đóng góp nhiều của cải cho kháng chiến.
Củng cố phat triển tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng.
Phát triển các đội dân quân du kích, tăng cường các hoạt động quân sự, đảm bảo
an toàn cho cán bộ, bộ đội...về hoạt động.
Tổ chức rào làng chiến đấu, chống
địch càn quét, đánh phá.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất thành công, đánh dấu một bước chuyển biến
mới về nhận thức cả về chủ trương và biện pháp tổ chức kháng chiến. Đó là phải
biết kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong đó lấy
thắng lợi trên chiến trường làm yếu tố quyết định thắng lợi chung. Đại hội chỉ
rõ nhiệm vụ của mỗi vùng kháng chiến, từ đó xã định rõ vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo của các tổ chức Đảng và Ủy ban hành chính kháng chiến trong việc tổ chức
nhân dân, dân quân du kích của các địa phương và sự phối hợp giữa các địa
phương và giữa các vùng trong tổ chức kháng chiến và đánh địch.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất, cùng với các tổ
chức Đảng địa phương, Chi ủy, chi bộ Đảng huyện đội đã triễn khai nhiệm vụ đẩy
mạnh công tác xây dựng, phát triển lực lượng dân quân, du kích đủ sức làm nồng
cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc, trong đó chú trọng xây dựng đại đội 4
trở thành đại đội bộ đội chủ lực của huyện có nhiệm vụ đánh địch và giúp đỡ,
huấn luyện, hướng dẫn lực lượng dân quân, du kích các địa phương làm tốt công
tác vận động quần chúng, đánh địch. Về công tác xây dựng Đảng, chi ủy, chi bộ
chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Chi ủy, chi bộ trong cơ quan huyện đội và
Đại đội 4 nhằm nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội.
Sau thất bại ở chiến trường Việt Bắc trong chiến dịch Thu Đông 1947, tại
chiến trường Bình-Trị-Thiên để cứu vãn tình thế và tiếp tục đánh phá hòng tiêu
diệt lực lượng kháng chiến, chiếm toàn bộ vùng đất Bố Trạch nhằm chia cắt Quảng
Bình, chia cắt chiến trường Bình-Trị-Thiên với hậu phương Thanh-Nghệ-Tỉnh. Quân
Pháp tập trung lực lượng cố thực hiện bằng được âm mưu: “ Rào chiến khu, chốt
cửa vào Nam” đối với ta.
Để thực hiện âm mưu thâm độc đó, đầu năm 1948, quân Pháp đã cho bố trí lại lực
lượng và hệ thống đồn bốt ở Bố Trạch. Ngoài số đồn đã có, quân Pháp đóng thêm
đồn ở Đá Đen (ở đèo Lý Hòa), đồn Cao lao Hạ, tăng cường thêm hệ thống hầm chiến
đấu, hào giao thông quanh các đồn; tăng quân số lên 447 tên, trong đó có 240
tên Pháp. Mặt khác chúng tập trung củng cố bộ máy tề ngụy đã có và tiếp tục
thành lập các ban hội tề trong các vùng chúng vừa đánh chiếm. Toàn huyện Bố
Trạch có 68 thôn thì đã có 31 thôn có hội tề. Về kinh tế, chúng tăng cường các
hoạt động kiểm soát chặt chẽ những người ra vào vùng chúng chiếm đóng hóng ngăn
chặn việc buôn bán, vận chuyển tiếp tế hàng hóa ra vùng tự do; chúng tổ chức
hàng trăm cuộc hành quân lùng sục, đánh phá khong cho nhân dân đi lại làm ăn,
ra đồng sản xuất. Chúng còn đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nói xấu kháng
chiến, nói xấu cán bộ, đảng viên của ta và tìm cách gây uy tín cho bọn tề ngụy.
Sau khi đánh chiếm được vùng đồng bằng ven biển và một số vùng dân cư quan
trọng ở Sen Bàng, Vạn Lộc, Thọ Lộc...quân Pháp liên tục tổ chức 25 cuộc hành
quân đánh phá tiêu diệt làng Cự Nẫm nhưng đều bị thất baị nặng nề. Âm mưu mở
đường đánh lên vùng tự do của ta ở Phúc Trạch của quân Pháp bị quân và dân Cự
Nẫm chặn đứng. Nhận rõ âm mưu của thực dân Pháp, Tỉnh đội Quảng Bình đã tăng
cường đại đội 3,5,6 bộ đội tiểu đoàn 274 chủ lực tỉnh về Bố Trạch, phối hợp với
đại đội 4 và du kích Cự Nẫm tổ chức chiến đấu không cho địch đánh lên vùng tự
do của ta. Vào cuối tháng 2-1948, thực dân Pháp điều hơn 350 quân tinh nhuệ
cùng nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại ở Đồng Hới ra Bố
Trạch, chúng tập trung về đồn Thọ Lộc và đồn Thanh Khê, chuẩn bị mở cuộc tấn
công lớn đánh chiếm làng Cự Nẫm. Quân Pháp đánh vào Cự Nẫm lần này nhằm tiêu
diệt lực lượng kháng chiến của ta, khai thông đường tỉnh lộ số 2, mưu tìm một
thắng lợi trên mặt trận quân sự để củng cố tinh thần binh lính và sỹ quan và hô
hào khuất trương thanh thế cho tên vua bù nhìn Bảo Đại sắp về nước. Mặt khác,
chúng cố chiếm được vựa lúa ở Cự Nẫm hòng triệt nguồn cung cấp lương thực đối
với lực lượng kháng chiến.
Nắm bắt được ý đồ của quân Pháp, để bảo toàn các cơ quan chỉ đạo kháng chiến
của huyện và chuẩn bị triễn khai lực lượng đánh địch, Huyện ủy, Ủy ban
kháng chiến hành chính huyện chỉ đạo cho dời các cơ quan của huyện đóng ở
Phú Định và Cự Nẫm lên Bồng Lai, một số lên căn cứ Ồ Ồ và lên Trốc.
Sáng ngày 1-3-1948, hơn 350 lính, được trang bị một lựu pháo 75ly, 3 súng cối
81ly, 3 súng liên thanh, 3 ô tô, 12 xe jeep, 7 ca nô và 200 nông dân chúng bắt
đi làm bia đỡ đạn, chia thành hai hướng thủy, bộ có máy yểm trợ bất ngờ tấn
công đánh vào Cự Nẫm. Trên cánh quân bộ, quân Pháp từ đồn Thọ Lộc, chia làm 3
mũi theo đường tỉnh lộ số 2 đánh vào Cự Nẫm: mũi thứ nhất đánh vào hướng đình
làng, mũi thứ hai đánh vào Cồn Lèo, mũi thứ ba đánh lên Cồn Tro. Trên cánh
đường thủy, quân Pháp ở đồn Thanh Khê, dùng ca nô chở quân theo sông Son lên
Khương Hà đánh xuống Cự Nẫm. Trên cánh quân bộ, sau khi để cho 200 nông dân lọt
qua vọng gác Động Dôn vào làng, du kích từ trong trận địa phục kích cho nổ mìn
chiếc xe đi đầu, tiêu diệt tại chổ 12 tên Pháp; bị chặn đánh bất ngờ, bọn địch
đi sau hoảng loạn chạy dạt vào các bụi cây ven đường co cụm bắn loạn xạ, không
dám tấn công vào làng. Cánh quân thủy, sau khi đổ bộ lên Khương Hà đã tiến về
Cự Nẫm, trên đường hành quân, chúng lọt vào trận địa phục kích của ta tại cầu
Bầu Bại, bộ đội, du kích nổ súng, quân pháp hoảng sợ chạy toán loạn ra các cánh
đồng, chạy qua khe Trong, sang vực Khái, qua cầu Lim, lên Hà Lời...Trong ngày
đầu đánh vào Cự Nẫm, cả hai hướng thủy, bộ quân pháp bị bộ độ, du kích chặn
đánh quyết liệt ngay từ đầu làng, buộc chúng phải rút quân về Thọ Lộc, cánh
quân thủy phải nằm lại trên sông Son. Sau một đêm củng cố lực lượng, sáng ngày
2-3-1948, quân Pháp mở cuộc tấn công đánh vào Cự Nẫm trên cả hai cánh quân
thủy, bộ. Trên hướng đường bộ, bọn địch vừ vượt qua khỏi đường tàu liền bị du
kích chặn đánh tiêu diệt 11 tên, làm bị thương nhiều tên khác, cuộc tấn công
của quân địch bị chặn đứng. Hứng đường thủy, quân Pháp vừa qua khỏi cầu Lim lọt
vào trận địa phục kích của ta, bộ đội, du kích chặn đánh tiêu diệt 5 tên, số
còn lại tháo chạy trở ngược lại Khương Hà. Trận đánh ngày thứ hai trên cả hai
hướng, ta tiêu diệt tại chổ 16 tên Pháp, làm bị thương nhiều tên khác, về ta
có 5 bộ đội, du kích bị thương. Mặc dù có quân đông, vũ khí hiện đại, có
máy bay, đại bác yểm trợ, quân Pháp vẫn không đánh chiếm được làng Cự Nẫm.
Trước những thất bại nặng nề, sáng ngày 3-3-1947, sau khi củng lại lực lượng,
được máy bay, ca nô, đại bác ném bom, bắn pháo yểm trợ, quân Pháp dốc toàn lực
trên cả hai hướng đồng loạt tấn công vào Cự Nẫm. Dựa vào rú, đồi, chiến lũy,
hầm hào, du kích, bộ đội đại đội 3,5,6 chủ lực tỉnh và đại đội 4 bộ đội địa
phương huyện bố trí trong các trận địa đã phối hợp chặt chẽ, chiến đấu ngoan
cường đánh lui các đợt phản công của địch ở rú Nguốn, Cồn Tro, Cầu Vàng, Mái
Trượt, Khương Hà, sông Son...Sau ba ngày đêm chiến đấu, quân và dân Cự Nẫm đã
tiêu diệt 50 tên Pháp, phá hủy và phá hỏng 4 xe quân sự, bắn cháy một ca nô.
Trận chiến đấu ba ngày đêm đầy oanh liệt đánh bại hàng chục đợt tấn công của
quân Pháp vào làng Cự Nẫm, thể hiện ý chí ngoan cường, quyết tâm chiến đấu đến
cùng để bảo vệ quê hương của quân và dân Cự Nẫm và cũng nói lên thất bại cay
đắng của đội quân viễn chinh Pháp ở Quảng Bình, điều đó được thể hiện trong bức
thư của tên quan năm gữi cho vị quan ba Su-Séc-Tơ chỉ huy quân Pháp ở Hoàn Lão:
“ Tôi lấy làm xấu hổ cho ngài, cho danh dự của một sỹ quan quân đội đại Pháp,
khi nghe tin một toán dân quê mọi rợ đã đánh gãy cánh quân do ngài chỉ huy.
Phải chăng đó là một thử thách đối với tài thao lược của ngài?...Nếu ngày mai
số phận hẩm hưu vẫn đến với binh sỹ, và cái làng Cự Nẫm ấy vẫn không bị dẫm nát
dưới gót giày của đội quân viễn chinh Pháp, thì tôi tin rằng, vâng, tôi tin
thế, lịch sử của ngài-Một sỹ quan đã từng lừng danh ở châu Phi sẽ ghi thêm một
vết nhơ không bao giờ rửa sạch...”*(Văn Nhĩ-Trên chiến lũy Cự Nẫm,in trong tập
“ Một thời khói lữa” NxnVh- Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình, xb
1994) Mặc dù vậy, nhưng do chiến đấu trong một điều kiện lực lượng ta kém
hẳn địch về nhiều mặt: địch có quân đông, vũ khí hiện đại, có nhiều kinh nghiệm
lại nuôi một dã tâm chiếm bằng được làng Cự Nẫm nên cuộc chiến đấu diễn ra vô
cùng ác liệt. Chiến đấu trong điều kiện không cân sức đó, để bảo toàn lực lượng
được sự đồng ý của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình, Chi ủy, Ủy
ban kháng chiến hành chính và Ban tản cư làng Cự Nẫm đã tổ chức đưa hơn 700
người dân ra tản cư ở Thón ( Tuyên Hóa). Việc đưa hơn 700 dân đi tản cư là một
hành động nhất thời, trước mắt nhằm tránh thiệt hại cho dân, song trong thực tế
kháng chiến, Chi bộ đảng, Ủy ban kháng chiến hành chính làng Cự Nẫm chưa quán
triệt đầy đủ chủ trương của Cấp ủy huyện “ bám dân, bám làng” kháng chiến.
Chính do “ mất dân” nên những năm tháng kháng chiến sau đó cán bộ, chiến sỹ ta
về Cự Nẫm hoạt động xây dựng lại phong trào gặp rất nhiều khó khăn.
Tuy phong trào kháng chiến ở Cự Nẫm sau tháng 3-1948 có phần đi xuống nhưng với
việc xây dựng thành công làng chiến đấu và với một quyết tâm cao cả chiến đấu
dũng cảm, ngoan cường bảo vệ làng, không cho địch đánh phá ra vùng tự do của ta
trong năm đầu kháng chiến, Cự Nẫm thực sự trở thành làng chiến đấu kiểu mẩu của
Liên khu 4: “ Làng Cự Nẫm là một làng chiến đấu kiểu mẫu ở Quảng Bình. Dân làng
đã tổ chức được nhiều đội du kích thiện chiến, gan dạ. Ủy ban kháng chiến hành
chính Cự Nẫm đã huy động toàn lực lượng dân chúng trong làng tham gia vào cuộc
kháng chiến. Do đó làng này đã đương đầu với quân Pháp từ ngày xảy ra tác chiến
ở Quảng Bình”*(Báo cáo tình hình kháng chiến Liên khu 4 ( tháng 1,2,3-1948) lưu
trử tại Văn phòng Huyện ủy Bố Trạch) và ngày 31-5-1948, Ủy ban kháng chiến hành
chính Liên khu 4 đã phát động cuộc “ thi đua Ái quốc” với nội dung: “ Phát
triển và huấn luyện, xây dựng dân quân, xây dựng nhiều làng chiến đấu Cự Nẫm,
củng cố chính quyền nhân dân, lãnh đạo nhân dân bố phòng tác chiến”. Và đặt
giãi thưởng “ làng Cự Nẫm” với phần thưởng 100 khẩu súng, 100 quả lựu đạn. Ngày
6-7-1948, Thường vụ Khu ủy 4 phát động “cuộc vận động Cự Nẫm” lấy xã làm đơn vị
mẫu trong toàn các cấp ủy Đảng của Liên khu.
Sau khi đánh chiếm được làng Cự Nẫm, quân Pháp hèn hạ mở đợt trả thù vô cùng
tàn bạo và hết sức man rợ, chúng bắt đi hơn 30 người, 70 con trâu bò và bắn,
giết, chặt đầu bêu trên cột hàng chục người dân vô tội.
Ngay sau đánh chiếm được làng chiến đấu Cự Nẫm, quân Pháp tổ chức lực lượng tấn
công đánh chiếm làng Võ Thuận, Khương Hà, Gia Hưng, cầu Ngân Sơn, làng Phú
Kinh, Phú Hữu...để bao vây, uy hiếp vùng căn cứ kháng chiến của ta, đồng thời
kiểm soát các tuyến đường giao thông, liên lạc của ta từ các chiến trường Nam –
Bắc Quảng Bình, từ vùng tạm bị chiếm ra vùng du kích vùng tự do, giữa chiến
trường Bình – Trị - Thiên với vùng tự do Thanh – Nghệ - Tĩnh chuẫn bị cho kế
hoạch mỡ rộng chiến tranh ra toàn Liên Khu 4.
Trước tội ác man rợ mà quân Pháp gây ra gây ra đối với đồng bào Cự Nẫm, quyết
trả thù cho đồng bào Cự Nẫm, ngày 9-3-1948 du kích thôn Cù Lạc đã phục kích
chặn đánh bọn địch ở đồn Cầu Bùng lên dỡ nhà dân ở Cù Lạc, giết chết 20 tên.
Ngày 23-8-1948, du kích thôn Khương Hà chặn đánh bọn địch ở đồn Khương Hà đi
lùng sục diệt 44 tên trong đó có 28 tên Pháp, một sỹ quan và tên đồn trưởng đồn
Khương Hà.
Hưởng ứng “ cuộc vận động Cự Nẫm” của Thường vụ Khu ủy và học tập làng chiến
chiến đấu Cự Nẫm rào làng chiến đấu, các Chi bộ Đảng và Ủy ban kháng chiến hành
chính các xã Trung Trạch, Sơn Trạch, Hải Trạch và Mỹ Trạch đã phát động nhân
dân các thôn Hoàn Lão ( Trung Trạch), Thanh Lăng, Phú Kinh (Sơn Trạch), Thanh
Ba, Cao Nguyên ( Bắc Trạch), Hỷ Duyệt ( Hải Trạch) huy động lúa, gạo, tiền bạc,
Tre, gỗ... và hàng vạn ngày công rào làng, biến những làng mạc nằm ngay trong
vùng địch kiểm soát trỡ thành làng chiến đấu của ta. Chính từ những làng chiến
đấu này mà cán bộ chiến sỹ ta có nơi đi, về dừng chân mỗi khi về đồng bằng hoạt
động xây dựng cơ sở, phát động nhân dân tham gia kháng chiến và cũng là bàn đạp
quan trọng để các đơn vị bộ đội chủ lực về triển khai lực lượng đánh địch ngay
trong lòng địch. Hoàn Lão nằm ven đường quốc lộ 1A, nơi thực dân Pháp và bọn
tay sai đặt cơ quan hành chính đầu não của huyện Bố Trạch, từ đây theo đường
quốc lộ 1A đi vào Đồng Hới, đi ra Thanh Khê sang Ba Đồn của huyện Quảng Trạch
và cũng chính từ Hoàn Lão theo đường tỉnh lộ số 2 đi lên Thọ Lộc, Cự Nẫm,
Khương Hà, Tróc ra Tuyên Hóa vùng tự do kháng chiến của ta.Tại Hoàn Lão và các
vùng phụ cận, dưới sự chỉ huy của tên quan tư Niex quân Pháp ở Quảng Bình đã
cho xây dựng một loạt đồn bốt ở Liên Dinh, Vạn Lộc, Võ Thuận, Sen Bàng, Cự
Nẫm....“Hoàn Lão – Bố Trạch là một trong 5 khu vực có nhiều hệ thống đồn bốt
nhất tỉnh”* (Báo cáo tháng 1,2,3-1948 ở Bố Trạch có 10 vị trí, Quảng Trạch
có 3 vị trí, Đồng Hới có 4 vị trí, Quảng Ninh có 8 vị trí, Lệ Thủy có 8 vị
trí). Từ Hoàn Lão, thực dân Pháp có thể khống chế được hoàn toàn vùng Bắc Quảng
Bình. Đối với ta, xây dựng được làng chiến đấu Hoàn Lão vững mạnh là có thể
tiến tới làm chủ được vùng đồng bằng ven biển từ Lý Nhân ra đến Lý Hòa, từ Hoàn
Lão lên Hòa Duyệt, Võ Thuận, Hoàn Phúc, Vạn Lộc, Cự Nẫm...Học tập làng chiến
đấu Cự Nẫm, nhân dân Hoàn Lão dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng xã Trung
Trạch đã đào hàng ngàn mét hào giao thông từ thôn này sang thôn khác, từ xóm
này sang xóm khác; đốn hạ hàng ngàn cây tre, cây gỗ trong vườn nhà ra xây dựng
làng chiến đấu, lập các trận địa chiến đấu. Đại đội du kích được chia nhỏ theo
tổ, nhóm phân tán về các thôn, xóm xây dựng cơ sở kháng chiến bí mật, phát
triển, tổ chức lực lượng vận động nhân dân tham gia kháng chiến, đánh địch bảo
vệ làng. Hoàn Lão trỡ thành làng chiến đấu ngay trong vùng địch kiểm soát và
cùng với các làng chiến đấu khác tạo thành một thế trận cài răng lược giữa ta
và địch ở vùng địch tạm chiếm đản bảo là chổ dựa vững chắc cho các lực lượng
kháng chiến của ta bám trụ chiến đấu đánh bại các âm mưu thủ đoạn của thực dân
Pháp trên đất Bố Trạch.
Trước âm mưu của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn Liên Khu, tháng
5-1948 Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu 4 chủ trương “ Tất cả cho
Bình-Trị-Thiên” và đề ra nhiệm vụ: Đánh mạnh ở Bình-Trị-Thiên; thúc đẩy phong
trào kháng chiến, đề phòng địch đánh Thanh-Nghệ-Tỉnh và mở rộng mặt trận Trung
Lào. Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ Liên Khu, Bộ chỉ huy Liên Khu
quyết định mở mặt trận Bắc Quảng Bình, nhằm mục đích khai thông đường vận tải
Bắc-Nam, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang hoạt động đánh bại kế hoạch phá
mùa lúa tháng 5 và âm mưu chiếm vùng đất Bắc Quảng Bình làm bàn đạp tấn công ra
Hà Tỉnh của địch. Căn cứ chỉ thị của Bộ chỉ huy Liên Khu 4, Ban chỉ huy Tỉnh
đội Quảng Bình chỉ thị cho lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp chặt chẽ với bộ đội
chủ lực Liên Khu trong các đợt hoạt động đánh địch trên địa bàn ; đồng thời đẩy
mạnh thực hiện phương châm “ Đại đội độc lập”, phân tán lực lượng luồn sâu về
vùng địch hậu , tổ chức vũ trang tuyên truyền kết hợp tập kích, phục kích vào những
vị trí nhỏ lẻ, những lúc địch sơ hở, trừ gian diệt tề; củng cố, phát triễn cơ
sở, lực lượng kháng chiến vùng sau lưng địch.
Để đảm bảo cho chiến dịch đánh mạnh ở Bắc Quảng Bình, Bộ chỉ
huy Liên Khu đã điều tiểu đoàn 400 thuộc Trung đoàn 103 Hà Tỉnh và tiểu đoàn
346 thuộc Trung đoàn 57 Nghệ An vào Quảng Bình phối hợp với tiểu đoàn 274
bộ đội địa phương Quảng Bình và các đại đội bộ đội địa phương, dân quân, du
kích các địa phương đánh địch. Theo kế hoạch đã định, ngày 13-5-1948, tiểu đoàn
400 từ Hà Tĩnh hành quân đi theo đường Kẻ Gỗ ( Hà Tĩnh) vào Xuân Sơn ( Bố
Trạch) theo đường Bắc sông Son ra huyện Quảng Trạch phối hợp với tiểu đoàn 274
trú quân ở Quảng Trạch đánh vào Ba Đồn và Ròn. Tiểu đoàn 346 từ Nghệ An hành
quân vào Hà Tĩnh đi theo dường Kẻ Gỗ lên Phúc Trạch, Tân Ấp, qua Yên Hóa (
Tuyên Hóa) vào Bố Trạch phối hợp với bộ đội tiểu đoàn 274, đánh vào hệ thống
đồn bốt của địch ở Bố Trạch. Ngoài các các đại đội bộ đội phối hợp với các đơn
vị chủ lực của Liên Khu, tiểu đòan 274 đã để lại một bộ phận bộ đội tham gia
với du kích Đồng Hới quấy rối địch ở vùng Thuận Lý và miền duyên hải Bố Trạch,
Minh Lệ ( Tuyên Hóa) và hai đại đội tập trung ở Phúc Trạch liên lạc với đơn vị
VI để chặn đánh quân Pháp từ Bunaphaò tràn về Tân Ấp *( Mật kế số 3/UN kế hoạch chiến đấu của Ban
Tham Mưu XB Quảng Bình. Ký hiệu Vv.220, thư viện Quân Đội). Thực hiện kế hoạch của Liên Khu ủy, sau khi
đặt hành quân vào các huyện Bắc Quảng Bình, các tiểu đoàn 346 và 400 của Liên
Khu đã cùng tiểu đoàn 274 bộ đội địa phương Quảng Bình và lực lượng dân quân du
kích các địa phương triễn khai công tác trinh sát nắm tình hình địch, xây dựng
phương án đánh địch và triển khai lực lượng chiến đấu.
Đầu tháng 6-1948, phối hợp với các chiến trường Bắc Quảng Bình, tại Bố Trạch,
bộ đội và du kích đột kích liên tiếp tổ chức nhiều cuộc tập kích, tấn công vào
hệ thống đồn bốt địch ở Hoàn Lão, Thọ Lộc, Cự Nẫm, Hỹ Duyệt... gây cho chúng
nhiều tổn thất lớn về quân số và làm thất bại âm mưu hành quân đánh phá vào
vùng du kích, vùng tự do của ta. Ngày 26-6, bộ đội đại đội 4, tiểu đoàn 400
cùng du kích Tây Trạch tập kích vào đồn Sen Bàng diệt 46 tên Pháp. Ngày 4-7, du
kích Hỷ Duyệt ( Hải Trạch) phối hợp với bộ đội tiểu đoàn 346 tập kích vào bọn
địch đi lùng ở Lòi Pheo. Trận đánh diễn ra giữa ban ngày và ở sát ngay đồn Đồng
Bơi, Đá Đen và đồn cầu Lý Hòa nhưng địch không dám cho quân ra ứng cứu.
Bawfbg lối đánh vận động chiến, du kích, bộ đội ta đã chiến đấu anh dũng đánh
tan cuộc hành quân của địch, diệt 13 tên trong đó có 11 lính Pháp. Cũng trong
thời gian này, du kích Hoàn Lão gài bom tại cổng Lò Rèn, đánh địch tại cầu
Phường Bún, cổng đồn Hoàn Lão làm cho bọn địch vô cùng hoang mang, lo sợ không
dám đưa quân ra khỏi đồn đi lùng sục, đánh phá. Du kích Cao Lao, Thanh Khê tập
kích bọn địch đi lùng, bao vây đồn Cao Lao. Du kích Lý Hòa ném lựu đạn diệt
địch ngay trong chợ Lý Hòa, Du kích Nam Trạch chặn đánh bọn địch đi lùng ngay
trước cổng đồn Chánh Hòa. Đấu tháng 7-1948, bộ đội đại đội 4 và du kích Sơn
Trạch phục kích tại lòi Hà Môn..Nắm chắc quy luật hoạt động của ca nô địch trên
tuyến sông Son, trung đội 2 đại đội 4 bộ đội địa phương của huyện đã bố trí lực
lượng mai phục tại bìa làng Hạ Môn nằm sát sông Son đối diện với núi Voi bên
kia sông. Trung đội 2 chia làm hai tổ mai phục, tổ chặn đầu do tiểu đội trưởng
Luyến và 2 đồng chí Sinh, Thục đảm nhiệm; toorkhoas đuôi có tiểu đội phó Phòng
và các đồng chí Thắng, Thụ. Ngoài ra còn có 3 tổ AT và DK có nhiệm vụ đánh trực
diện khi ca nô địch lọt vào trận địa mai phục. Tổ AT thứ nhất do tiểu đội
trưởng Tùng chỉ huy, tổ DK và AT chính diện do tiểu đội phó Sung và tổ trưởng
Vây phụ trách; tổ DK thứ ba do đồng chí Đống tiểu đội phó đảm nhiệm. Chỉ huy
trung đội là đồng chí Phan Văn Truyền, trung đội trưởng. Sáng ngày 15-7, như
thường lệ hai ca nô địch từ Thanh Khê chạy lên Gia Hưng, tại trạm gác Phú Kinh,
phát hiện thấy ca nô địch, đồng chí Thà trinh sát nhanh chống phát tín hiệu báo
động cho du kích. Nhận được tín hiệu coa địch, trung đội trưởng Truyền cho các
bộ đội triễn khai chiến đấu theo phương án tác chiến đã định. Trên sông Son,
hai ca nô địch chở đầy lính nhằm hướng Gia Hưng thẳng tiến, chiếc thứ hai cách
chiếc thứ nhất 100m. Để chiếc đi đầu lọt qua trận địa, khi chiếc thứ hai vào
ngang tầm hỏa lực, đồng chí Truyền ra lệnh đánh, ngay lập tức các khẩu DK, AT
nhắm vào chiếc ca nô nhả đạn. Sau hai loạt đạn,chiếc ca nô địch trúng đạn bị
thương, khói bốc lên mù mịt, chiếc ca nô lập tức quay đầu hướng núi voi hòng
tìm đường tẩu thoát. Chiếc ca nô đi đầu nghe có tiếng súng nổ lập tức quay trở
lại vừa chạy, vừa bắn hòng tìm cách giãi vây cho chiếc thứ hai. Do chưa có được
kinh nghiệm đánh tàu địch, bô đội ta không khống chế được ca nô đã để cho hai
chiếc ca nô địch cặp mạn kéo nhau chạy thoát về Thanh khê. Trận đánh diễn ra
nhanh chóng, bộ đội ta đã bắn cháy một ca nô, diệt 35 tên, phá tan cuộc hành
quân của địch.Đây là trận đánh đường thủy tiêu biểu, gây tiếng vang lớn trong
toàn tỉnh.* ( Lịch sử LLVTND huyện Bố Trạch – 1945-2000, tr74). Tại xã Bắc
Trạch, trưa ngày 20-7, nắm chắc quy luật đi lấy nước của bọn địch ở đồn Cao
Lao, một tổ du kích làng Cao Lao gồm Hồ Bá Dĩ, Nguyễn Văn Cương và Cao Viết
Tường ( quân báo E18) do xã đội trưỡng Hoàng Đăng Thái chỉ huy đã lên kế hoạch
đi cắt cỏ tại giếng Hóc, dùng mẹo “ ôm hè” lừa bọn địch đi lấy nước cướp
được 3 khẩu súng giữa ban ngày. Trận giếng Hóc mở đầu cho phong trào “ ôm hè”
tay không cướp súng địch trong toàn tỉnh.* ( lịch sử Đảng bộ huyện Bố
Trạch – tập 1 – 1930-1945 tr 136)
Trước nguy cơ bị bộ đội và du kích ta tấn công và tiêu diệt, nhất là sau trận
thất bại nặng nề ở Sen Bàng, Lòi Pheo, ngày 3-7 quân Pháp phải rút các đồn lẽ ở
Khương Hà, Phú Kinh , ngày 8-7 rút đồn Minh Lệ đưa quân về tăng cường cho Bố
Trạch và điều hơn 1500 quân, 200 xe quân sự từ Huế, Quảng Trị ra Bố Trạch, đư
quân số ở đồn Thanh Khê từ 70 tên tăng lên 109 tên, đồn Hoàn Lão tăng lên 121
tên. Đồng thời quân Pháp mở hàng chục cuộc hành quân đánh phá lên Phong Nha và
chuẩn bị lực lượng đánh lên Tróc hòng đánh chiếm vùng tự do kháng
chiến của ta.
Sau gần 80 ngày đêm phối hợp cùng các chiến trường Bắc Quảng Bình tấn công quân
địch, quân và dân Bố Trạch dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy và sự chỉ đạo, chỉ huy
tác chiến cuả Huyện đội bộ, có sự chi viện của bộ đội chủ lực Liên Khu và bộ
đội địa phương tỉnh đã tổ chức đánh địch cả ban đêm lẫn ban ngày với lối đánh
du kích, vận động chiến... đánh tan các cuộc hành quân lùng sục, đánh phá mở
rộng vùng chiếm đóng của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắn
cháy, phá hủy nhiều ô tô, ca nô và phương tiện chiến tranh, mở rộng địa bàn hoạt
động của ta ở vùng đồng bằng ven biển, bước đầu biến hậu phương địch thành hậu
phương của ta, đúng như lời thú nhận của tên thiếu tá Nguyễn Ngọc Lễ tổng chỉ
huy vệ quân ở trung phần Việt Nam trong báo cáo ngày 27-9-1948 lên bộ chỉ huy
Pháp và thủ hiến Trung phần: “Việt minh hoạt động ráo riết, lấy hết đồn này đến
đồn khác và hoạt động cả ban ngày..mà quân ta không đủ quân số và vũ khí để đối
phó”*( Dẫn theo Quân khu IV – lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954) QĐND 1990-tr 168)Thắng lợi trên mặt trận quân sự ở Bố Trạch góp
phần chặn đứng âm mưu của thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Quảng Bình làm bàn đạp
tấn công Hà Tỉnh và các tỉnh phía Bắc Liên Khu IV.
Trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch, việc gây ảnh hưởng, giành lấy
dân chúng để thiết lập chính quyền trong vùng tạm bị chiếm là vấn đề quan trọng
nhất, vì có chiếm được dân chúng, có chính quyền thì mọi mục tiêu của cuộc
chiến tranh nhanh chóng được giãi quyết.
Đối với ta, nhiệm vụ đấu tranh phá chính quyền địch, thiết lập chính quyền cách
mạng diễn ra ngay từ đầu khi chiến tranh nổ ra. Đặc biệt từ năm 1948, khi địch
thay đổi chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “ Bình định cấp tốc”, thì
việc đấu tranh này giữa ta và địch ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt nhất
là trong vùng địch kiểm soát và vùng giáp ranh với vùng du kích.
Đối với thực dân Pháp, sau những cuộc đánh phá chiếm đất đai, chúng lập tức
thực hiện âm mưu bình định, thành lập hội tề đến đó; Hệ thống hội tề này là chổ
dựa, là công cụ trực tiếp thi hành các âm mưu thôn tính của địch ở thôn xã.*( Hội
tề còn gọi là hội đồng hương hính, một tổ chức chính quyền cấp xã do thực dân
pháp đặt ra và áp dụng đầu tiên ở Nam Bộ. Ở Quảng Bình, ban hội tề của địch
gồm: Một ban hương lý, một ban trật tự, Một ban hương vệ. Ban hương lý có lý
trưởng và ngũ hương. Các thành phần tham gia hội tề phần nhiều là hương lý của
chính quyền phong kiến và một số phần tử phản động chống phá kháng chiến).
Về chính trị, thực dân Pháp dùng hội tề để chia rẽ nhân dân với chính quyền
cách mạng, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ cộng đồng dân cư làng xã..gây cơ sở và
thanh thế cho cho chính quyền thực dân, phong kiến. Về quân sự, hội tề giúp
thực dân Pháp kiểm soát, quản lý dân chúng, đôn quân bắt lính, bắt phu, tổ chức
các đội hương dũng, nghĩa dũng chống lại công cuộc kháng chiến của ta. Về kinh
tế, hội tề là công cụ thu thuế, vơ vét của cải... phục vụ âm mưu “ lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh”, bao vây kinh tế kháng chiến.
Thắng lợi Xuân Hè năm 1948 của quân và dân Bố Trạch đã góp phần quan trọng tạo
nên những thắng lợi trên khắp các chiến trường Bắc Quảng Bình. Quân và dân Bố
Trạch đã thực hiện thắng lợi nghị quyết của Bộ tư lệnh Liên khu IV “ Đánh mạnh
ở Bắc Quảng Bình”.
Năm 1948, chiến trường Quảng Bình chia thành hai khu vực. Từ Bắc sông Nhật Lệ
trở ra thuộc phạm vi hoạt động của trung đòan 103 *( trung đoàn 103 của Hà
Tỉnh, Quân khu tăng cường vào hoạt động ở Bắc Quảng Bình). Chiến trường Nam
sông Nhật Lệ thuộc trung đoàn 95 Quảng Trị. Ngày 22-4-1949, Bộ tư lệnh Liên khu
ủy thống nhất chiến trường toàn tỉnh Quảng Bình và ngày 2-9-1949,
trung đoàn 18 của Quảng Bình được thành lập tại còoi ( Tuyên Hóa) gồm tiểu đoàn
274 và 436 *( tiểu đoàn 436 chủ lực của Liên khu từ Thanh- Nghệ-Tĩnh vào).
Từ đây trên chiến trường Bình-Trị-Thiên, ba tỉnh có ba trung đoàn chủ lực hoạt
động làm nồng cốt cho phong trào chiến tranh du kích địa phương phát
triển.
Trước sự phát triển
nhanh chóng của lực lượng kháng chiến và những hoạt động quân sự của ta trên
khắp các mặt trận từ vùng du kích đến vùng sau lưng địch đã buộc thực dân Pháp
vội vã điều quân từ Đồng hới ra tăng cường cho các vị trí đóng quân quan trọng
của chúng ở Ba Dốc, Chánh Hòa, Cồn Trụm, Hoàn Lão, Đồng Bơi, Đá Đen, Thanh Khê,
Vạn Lộc, Thọ Lộc, Sen Bàng, sửa chửa đường quốc lộ 1A, đường tỉnh lộ 2 và gấp
rút cho xây dựng sân bay dã chiến ở Thanh Khê, Vạn Lộc.
Ngày 27-3-1948, Ban
thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào “ Thi đua Ái quốc”
nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân và tòan dân nâng cao lòng yêu nước, đẩy
mạnh thi đua trong lao động sản xuất, trong chiến đấu thực hiện công cuộc
“kháng chiến kiến quốc” thắng
lợi.
Hưởng
ứng phong trào “ Thi đua ái quốc” và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện
lần thứ nhất ( 10-1947) và Đại hội Đảng bộ tỉnh làn thứ nhất ( 6-1-1948), Huyện
ủy đã chỉ thị cho các cấp ủy Đảng các xã, các Ban ngành cấp huyện, các đơn vị
tổ chức quán triệt, học tập nội dung cuộc vận động “ Thi đua Ái quốc” và bàn
biện pháp tổ chức, phát động phong trào “ Thi đua Ái quốc” trong cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp quần chúng nhân dân. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy,
Chi ủy chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội Bố trạch đã tổ chức cho đảng viên học tập
nội dung “ Thi đua Ái quốc”. Tháng 11 – 1948, Huyện ủy Bố Trạch đã chỉ thị Chi
ủy chi bộ đảng Huyện đội bộ tập trung chấn chỉnh lại công tác tổ chức, cán bộ,
sắp xếp kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo chỉ huy, các phòng ban, xây dựng kế hoạch
phối hợp chiến đấu với đội “ Công an đặc biệt” của huyện vừa được thành lập, tổ
chức lại mạng lưới thông tin liên lạc đảm bảo sự chỉ huy thông suốt từ Ban chỉ
huy Huyện đội bộ đến Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, các ban,
ngành và đại đội 4 nhằm đảm bảo cho Huyện đội bộ và lực lượng vũ trang toàn
huyện tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được cấp trên giao .
Đối với Huyện đội bộ sau
khi sắp xếp, tổ chức lại công tác tổ chức, cán bộ... toàn cơ quan có 22 cán bộ,
chiến sỹ do đồng chí Đặng Đức ( Rợ) phụ trách huyện đội trưởng, đồng chí
Phan Khắc Hy, Thường vụ Huyện ủy phụ trách chính trị viên, đồng chí Hoàng Tấn
Ất, huyện đội phó, đồng chí Trấp Hy trưởng Ban chính trị-Bí thư Chi bộ
cùng các Ban: quân sự - đồng chí Trần Cảm, trưởng ban; Ban chính trị -
đồng chí Trấp Hy, trưởng ban; Ban văn thư – đồng chí Biểu, trưởng ban và 2 thư
ký: Luật, Phụ; Ban quân khí – đồng chí Khởi, trưởng ban; Ban quân lương – đồng
chí Hy, trưởng ban; Ban y tế - đồng chí Tiếu, trưởng ban; Ban tiếp tế - nữ đồng
chí Cúc và Văn phòng – thương binh, tử sỹ có các đồng chí Thanh, Ninh,
Xuyến* ( Nhật ký kháng chiến 1947-1950 của đồng chí Quách Xuân Kỳ và Phan
Khắc Hy và tự thuật của đồng chí Phan Khắc Hy năm 2014, lưu giữ tại Văn phòng
Huyện ủy Bố Trạch)
Đối với đại đội 4 du
kích thường trực của Huyện, sau khi được củng cố về mặt tổ chức và trực tiếp
tham gia chiến đấu; Đại đội 4 ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ cả về
tổ chức Đảng, công tác chính trị, quân số, vũ khí trang bị, nhất là về kinh nghiệm
chiến đấu và thật sự trở thành đơn vị nồng cốt của lực lượng vũ trang của
Huyện. Trước yêu cầu ngày càng phát triển của cuộc kháng chiến, được sự chỉ đạo
của tỉnh đội Quảng Bình và Huyện ủy Bố Trạch, trung tuần tháng 11 – 1948, Ban
chỉ huy Huyện đội quyết định chuyển đại đội 4 du kích thường trực thành đại đội
4 bộ đội địa phương của huyện. Đại đội 4 trực thuộc Huyện đội bộ gồm có 3 cán
bộ chỉ huy: đồng chí Hoàng Tấn Ất, huyện đội phó kiêm Đại đội trưởng, đồng chí
Soạn chính trị viên, đồng chí Đặng Gia Hy chính trị viên phó, đồng chí Sử
trưởng Ban chính trị đại đội và cuối năm 1948, Ban chỉ huy Đại đội 4 được bổ
sung thêm hai đồng chí Thìn và Châu Y. Ngày 4-12-1948, Huyện đội bộ điều đồng
chí Yến làm Bí thư chi bộ Đại đội 4, đại đội có ba trung đội với 99 chiến sĩ,
vũ khí trang bị có 15 khẩu súng các loại và một số lựu đạn là chiến lợi phẩm
thu được của địch. Đại đội 4 từ khi được giao làm nhiệm vụ “ Đại đội độc lập”
đã cùng với đại đội 90 của tiểu đoàn 400 tiến sâu vào vùng sau lưng địch vừa
chiến đấu, vừa công tác, tích cực tuyên truyền nhân dân, gây cơ sở chiến tranh
nhân dân. Hướng dẫn nhân dân đánh giặc, cất dấu tài sản, giúp đỡ du kích đánh
giặc trưởng thành nên bộ đội địa phương. Khi địch tấn công đến thì đại đội độc
lập cùng dân quân du kích quấy rối, phá hoại. *( QĐND VN- quân khu IV: Sự
kiện hàng năm chiến tranh nhân dân Quân khu IV chống thực dân Pháp (1945-1954)
1985-tr 52).
Để tăng cường vai trò
lãnh đạo cuả Đảng và thắt chặt quan hệ trong hiệp đồng tác chiến nhằm xây dựng
lực lượng vũ trang có khả năng độc lập tác chiến cao trong chiến đấu.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, đồng chí Soạn chính trị viên đại đội 4 được
chỉ định tham gia vào Ban chấp hành Đảng bộ huyện ngoài ra các đồng chí chính
trị viên trung đội, được Huyện ủy giới thiệu về tham gia vào Cấp ủy cơ sở nơi
bộ đội về hoạt động. Từ sau khi xác định nhiện vụ “ Đại đội độc lập” và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đại đội 4 bộ đội địa phương huyện Bố Trạch đã
được củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và bộ đội đưa đến sức mạnh
chiến đấu của đại đội được tăng cường.
Suốt gần hai năm thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược trên đất Bố Trạch, thực
dân Pháp luôn đặt mục tiêu phải đánh chiếm bằng được vùng Tróoc và phía Tây
huyện Bố Trạch.
Tróoc là vùng đất trung tâm của xã Phúc Trạch, là vùng tự do, khu căn cứ kháng
chiến của ta, là cầu nối giữa vùng tự do Bố Trạch với vùng tự do rộng lớn phía
Tây – Bắc Quảng Bình đó là huyện Tuyên Hóa. Vùng Tróoc còn là nơi có đông đồng
bào theo đạo Thiên chúa giáo, chiếm tới 95% dân số trong vùng, là nơi tập trung
của nhiều tuyến đường giao thông liên lạc giữa chiến trường Nam Quảng Bình với
chiến trường và vùng tự do Thanh-Nghệ-Tỉnh. Vì vậy Tróoc nói riêng xã Phúc
Trạch nói chung có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng cả về địa chính
trị, địa quân sự. Đánh chiếm được vùng Tróoc, thực dân Pháp thực hiện được hoàn
toàn âm mưu đánh chiếm huyện Bố Trạch, tiến tới mở rộng chiến tranh ra toàn bộ
vùng tự do phía Tây Bắc Quảng Bình. Chiếm được Tróoc, thực dân Pháp mong dựa
vào lòng tin của đồng bào công giáo nhất là bọn phản động trong đồng bào theo
đạo Thiên chúa để khống chế, uy hiếp cán bộ và các lực lượng kháng chiến và
hòng làm lung lay lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Đánh chiếm
được Tróoc, thực dân Pháp sẽ thiết lập hoàn chỉnh hệ thống đồn bốt suốt dọc
tỉnh lộ số 2 từ Hoàn Lão lên Tróoc, cùng với việc chiếm đất, chiếm dân, cắt đứt
các tuyến giao thông liên lạc từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc qua Bố Trạch; như
vậy thực dân Pháp thực hiện được âm mưu “ Rào chiến khu, chốt cửa vào Nam” đối
với lực lượng kháng chiến của ta. Chính vì thế vùng Tróoc, trở thành mục tiêu
chiến lược trong phương án tác chiến giữa ta và địch.
Ngày 8-12-1948, quân Pháp ở Quảng Bình đã điều 200 quân và bắt hàng trăm nông
dân ở Cự Nẫm, Cổ Giang về đồn Phong Nha chuẩn bị cho việc đánh Tróoc.
Trước những hoạt động quân sự của địch, Huyện ủy đã chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn còn lại của huyện và của tỉnh chuyển ra lền Anh và Cao Mại ( Tuyên Hóa),
chỉ đạo cơ quan Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện, Huyện đội bộ,
Công an..bố trí cán bộ lên Phúc Trạch khảo sát tình hình tổ chức sơ tán dân,
hướng dẫn nhân dân đào hầm hào, cất dấu tài sản, thóc gạo...đồng chí Tâmđược
Huyện đội bộ giao nhiệm vụ phối hợp với xã đội, du kích Phúc Trạch trinh sát
trận địa, lên phương án chiến đấu bố trí bộ đội ở Chọ Rọ, Khe Gát chặn đánh và
cắt đường rút quân của địch.
Đêm ngày 9-12-1948, hơn 200 quân Pháp và hàng trăm nông dân đi theo làm bia đỡ
đạn do tên quan ba Ca-Bi-Lút chỉ huy có máy bay, pháo binh yểm trợ chia làm hai
hướng: hướng chính từ chọ Rọ đánh lên và hướng còn lại vòng qua Bàu Sen
đánh về. Mục tiêu chính của quân Pháp là phải đánh chiếm được Đồng Bại. Sáng
ngày 10-12-1948, sau những đợt bắn phá của pháo binh và oanh tạc của máy bay,
quân Pháp trên cả hai hướng đồng loạt tấn công đánh chiếm Tróoc. Trên hướng
chính cánh quân đi theo đường số 2 lên Chọ Rọ do linh mục Phú ở xứ Tam Trang
dẫn đường lọt vào trận địa phục của ta và bị du kích Phúc Trạch chặn đánh tiêu
diệt tại chổ 17 tên Pháp. Bọn địch sống sót còn lại chống trả quyết liệt, cố
sống chết tổ chức nhiều đợt phản kích vượt qua cầu Chọ Rọ để vào Tróoc.Ở hướng
Bàu Sen, địch không vấp phải sự kháng cự nào của quân ta nên chúng tiến thẳng
vào Đồng Bại hợp với cánh quân trên hướng chính chiếm Đồng Bại và toàn bộ vùng
Tróoc. Với ý đồ chiếm giữ lâu dài, ngày 14-12 quân Pháp bắt dân sữa chữa đường
tỉnh lộ số 2, cướp 150 chiếc đò ghép thành cầu phao qua bến Xuân Sơn, sân bay
dã chiến, hệ thống bốt, hầm hào, trận địa cố thủ ở Đồng Bại
Việc để mất Tróoc, nguyên nhân trước hết do ta chủ quan không nắm chắc được ý
đồ và hướng hành quân của địch nên nhận định tình hình thiếu chính xác. Mặc dù
biết rõ địch tập trung quân, vận chuyển lương thực và bắt phu đưa về Phong Nha
chuẩn bị đánh Trooc. Trinh sát ta biết trước nữa ngày địch sẽ đánh Trooc nhưng
vẫn chủ quan cho rằng địch chỉ sử dụng 200 quân và với địa thế Trooc rất hiểm
trở, địch chỉ có đánh chứ không chiếm đóng, nên ta chỉ có chuẩn bị phương án
tản cư dân chúng và chống càn. Đánh Trooc lần này ngoài việc huy động bộ binh,
pháo binh và máy bay, địch có nhiều thủ đoạn xảo quyệt hơn. Chúng cho máy bay
trinh sát trận địa ta, rãi truyền đơn tung hô “ Pháp-Việt đề huề”, “ Việt Nam
độc lập”; chúng cải trang thành Vệ quốc quân, đưa linh mục đi trước dể dụ dỗ
dân chúng, đi đến đâu chúng không đốt nhà, không giết người, cho trẻ con kẹo
bánh, người dân nào chẳng may bị bắt chúng lập tức cho thả ngay. Trong hành
quân chúng rất khôn ngoan tránh Chọ Rọ, Bàu Sen nơi du kích ta bố trí lực
lượng. Ngay khi bị ta đánh ở Chọ Rọ, địch tập trung một bộ phận hỏa lực chống
trả để cho số còn lại tìm đường tránh khác tiến vào Trooc. Qua việc để mất
Trooc, trước hết do ta chủ quan, nắm địch không chắc cho nên trong việc chuẩn
bị phương án đánh địch, ta chỉ chủ trọng đến việc đưa dân chúng đi tản cư và
chống càn là chủ yếu, chính vì vậy ta chỉ bố trí lực lượng du kích Phúc Trạch
đánh địch trong khi đó du kích Phúc Trạch chưa từng trãi qua chiến đấu. Nhận
thấy những tồn tại, yếu kém trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng chiến
đấu bảo vệ chiến khu Tróoc, Huyện ủy đã chỉ đạo Ủy ban kháng chiến hành chính
Huyện, Huyện đội bộ, chi bộ Đảng, xã đội Phúc Trạch kiểm điểm, rút kinh nghiệm
và tập trung làm tốt công tác tư tưởng trong cán bộ đảng viên, lực lượng dân
quân du kích và nhân dân. Đồng thời đề ra chủ trương, tập trung chỉ đạo là phải
lấy hành động của địch để làm tốt công tác phản tuyên truyền đánh tan các âm
mưu, thủ đoạn của địch. Tổ chức cho dân chúng hồi cư, cán bộ phải về bám sát
dân, có kế hoạch sống với địc để kháng chiến, xây dựng kế hoạch phải linh hoạt
sát thực tế, hoạt động phải đảm bảo bí mật, vận đông tốt dân chúng cất dấu tài
sản để kháng chiến lâu dài. Cán bộ, chiến sỹ đại đội 4 bộ đội địa phương huyện
và công an huyện đẩy mạnh hoạt động quấy rối địch, đẩy mạnh diệt tề trừ gian,
phối hợp chặt chẽ với lực lượng du kích, đẩy mạnh hoạt động nắm tình hình địch,
làm tốt công tác tuyên truyền vận động quần chúng cả trong hai khu vực địch
chiếm đóng và khu vực bị địch uy hiếp.
Để bảo vệ và phá tan âm mưu “ Rào chiến khu, chốt cửa vào Nam” của địch, tỉnh
đội đã điều đại đội 7 chủ lực tỉnh ra hoạt động ở Khe Gát phối hợp với đại đội
4 bộ đội địa phương huyện làm công tác dân vận tuyên truyền vận động nhân dân
thấy được âm mưu của địch đánh lên Trooc, sẵn sàng cùng bộ đội, du kích chiến
đấu đánh bại kẻ địch nêu chúng tấn công Khe Gát.
Ngày 14-12-1948, quân Pháp ở Đồng Bại mở cuộc hành quân qua vùng Hung Buổi đánh
vào Khe Gát. Rút kinh nghiệm trận đánh Trooc, bộ đội đại đội 7 do đại đội
trưởng Trần Ngọc Hường và chính trị viên Phan Uẩn chỉ huy đã chặn đánh quyết
liệt tiêu diệt tại chổ 25 tên trong đó có 13 tên Pháp.
Ngày 19-12-1948, Liên khu ủy họp hội nghị cán bộ mở rộng, phân tích âm mưu của
địch và hậu quả để mất Trooc của ta. Hội nghị quyết định phải đánh bật địch ra
khỏi Trooc để bảo vệ vùng chiến khu Tây Bắc Quảng Bình và khai thông tuyến
đường giao thông, iên lạc Bắc –Nam của Liên khu. Để thực hiện nhiệm vụ đề
ra, ngày 24-12-1948, Bộ tư lệnh Liên Khu đã điều hai đại đội của trung
đoàn 103 do đồng chí Tùng Lâm chỉ huy từ Hà Tỉnh hành quân cấp tốc vào Phúc
Trạch phối hợp cùng dân quân du kích và bộ đội địa phương, triển khai phương án
đánh địch ở Trooc. Sau khi hành quân vào đến vị trí tập kết ngay đêm 25-12, hai
đại đội của trung đoàn 103 đã phối hợp với đại đôi 7, đại đôi 4 và du
kích Phúc Trạch mở cuộc tập kích đánh đồn Đồng Bại. Đồn Đồng Bại đóng ởĐây là
một vị trí hiểm yếu, phía đông là bãi bồi, vách đất cao hơn 2m, có hào sâu; phía
Tây có suối sâu, núi đá vôi cao dựng đứng; phía Nam cũng được bao bọc với những
dãy núi đá vôi. Đi vào Đồng Bại chỉ có một con đường mòn độc đạo men theo dưới
chân các hòn núi đá vôi. Thực hiện nhiệm vụ được giao ngay trong đêm 25-12, sau
khi hành quân vào vị trí tập kết, hai đại đội của trung đoàn 103 đã phối hợp
với dân quân du kích và bộ đội đại 7, đại đội 4 địa phương mở cuộc tấn công
đánh đồn Đồng Bại. Do chiến đấu trên một địa hình phức tạp, lực lượng địch đông
cố thủ trong một hệ thống đồn bốt, công sự phòng thủ vững chắc, lực lượng bộ
đội ta vừa hành quân đường xa đến triển khai đánh trong đêm, mọi công tác trinh
sát, chuẩn bị chiến trường chưa thật đầy đủ, chu đáo, mặt khác bộ đội ta chưa
có kinh nghiệm đánh địch trong công sự do đó ta không đẩy được quân Pháp ra
khỏi đồn.Việc tổ chức lục lượng chiến đấu giãi phóng đồn Đồng Bại không thành
công đã gây cho ta nhiều khó khăn trong việc đảm bảo tuyến giao thông liên lạc,
vận tải hàng hóa từ vùng tự do Thanh-Nghệ-Tỉnh vào chiến trường Bình-Tri-Thiên,
từ vùng tạm bị chiếm ra vùng tự do...
Trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng nhận rõ âm mưu, thủ
đoạn thâm độc của thực dân Pháp trong việc thành lập và sử dụng các ban hội tề.
Ngày 19-1-1948, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác phá tề.
Bản chỉ thị nêu rõ: “ Đối với hội tề cũng như đối với mọi tổ chức bù nhìn, cố
nhiên nói chung ta phải tìm cách phá” nhưng “ Phải khôn khéo và mềm mỏng” *(
Văn kiện Đảng( 1945-1954) Ban NCLSĐ Trung ương H-1979, tập2, tr 199)
Ngày 17-12-1948, Tỉnh ủy phát động tuần lễ “ tích cực diệt tề” nhằm thủ tiêu
các hội tề, triệt hạ chính quyền tay sai của Pháp. Thực hiện chủ trương của
Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Huyện ủy Bố Trạch về công tác
phá tề. Chi bộ Đảng huyện đội bộ tập trung chỉ đạo Chi bộ Đảng và Ban chỉ huy
đại đội 4, Ban chỉ huy xã đội các xã phối hợp với tổ “ Công an đặc biệt” đẩy
mạnh các hoạt động, nắm chắc tình hình các hội tề ngụy, nhất là đối với
những tên tề gian ác, có nhiêu nợ máu với nhân dân, từ đó xây dựng phương án,
bố trí lực lượng diệt tề. Trong công tác diệt tề phải chú ý giữ được bí mật,
không làm xáo trộn tình hình trong hàng ngũ địch và trong dân chúng, đảm bảo an
toàn cho những người do ta bố trí đưa vào hoạt động trong các hội tề. Ngày 31-12-1948,
tuần lễ diệt tề ở Bố Trạch bắt đầu, khắp các địa phương
trong toàn Huyện, bộ đội đại đội 4 phối hợp chặt chẽ với các tổ “ công an đặc
biệt” và du kích các xã đã bí mật ra quân tấn công vào các hội tề và các tên
việt gian tay sai có nhiều nợ máu. Để tuần lễ diệt tề thắng lợi, nhiều đồng chí
trong thường vụ, cấp ủy Huyện đã về trực tiếp chỉ đạo ở các địa phương nơi có
hoạt động của tề ngụy gây nhiều tác hại đối với lực lượng kháng chiến của ta:
đồng chí Quách Xuân Kỳ thường vụ huyện ủy về chỉ đạo xã Trung Trạch, đồng chí
Trần Thiệt huyện ủy viên về Nam Trạch, đồng chí Phan Khắc Hy thường vụ huyện
ủy, chính trị viện huyện đôi về Hải Trạch. Ngay từ những ngày đầu tiên
của cuộc kháng chiến chống Pháp trên đất Bố Trạch, đầu tháng 7-1947 du kích Lý Hòa
đã phục kích ngay trong làng, giữa ban ngày giết chết tên đội Hàm, một tên tay
sai khét tiếng có nhiều nợ máu đối với nhân dân làng Cự Nẫm, từ bài học kinh
nghiệm diệt tề này ngày 17-12-1948, đồng chí Quách Xuân Kỳ đã cải trang thành
một sĩ quan Pháp cùng một tổ “ Công an đặc biệt” đột nhập về giết chết tên xạ
Biểu ở làng Đồng Trạch. Tuần lễ diệt tề, trừ gian đã nhanh chóng trở thành một
phong trào rộng lớn trong các xã vùng địch kiểm soát nó còn được kéo dài sang
cả năm 1949. Tính riêng trong “tuần lễ diệt tề” năm 1948, từ ngày 17-12 đên
31-12 toàn Huyện đã giãi tán được 30 ban hội tề trong tổng số 55 ban hội
tề. Tuần lễ diệt tề đã có tác động mạnh đến nhận thức của dân chúng đưa đến có
25 thôn, dân chúng đấu tranh không theo sự điều hành của hội tề do địch lập ra.
Sau gần hai năm đánh chiếm Bố Trạch, thực dân Pháp đã thành lập được hội
tề hầu hết trong các làng xã chúng chiếm đóng. Tuy nhiên các hội tề vẽ bề ngoài
có đầy đủ các chức danh và ban bệ nhưng thực chất rất bấp bênh, hoạt động của
các hội tề phần lớn bó hẹp trong việc quản lý hành chính và sự vụ thông thường
diễn ra hàng ngày, nguy cơ bị bộ đội, du kích tiêu diệt hiện hữu từng ngày,
từng giờ. Chính vì thế ở các làng xã có phong trào kháng chiến phát triển mạnh,
ta đã lợi dụng sự yếu kém của bộ máy tề ngụy, đưa cán bộ cài cắm vào hoạt động
trong hàng ngũ địch, nắm tình hình cung cấp thông tin hoạt động của địch cho
kháng chiến và lợi dụng hội tề để liên lạc, tiếp tế lương thực, thực phẩm,
thuốc men từ vùng bị chiếm đóng ra vùng tự do. Phong trào diệt tề năm 1948 ở Bố
Trạch đã phá tan nhiều hội tề của địch đã tăng thêm sức mạnh, uy tín cho chính
quyền cách mạng trong vùng địch kiểm soát, đồng thời qua đó tạo được điều kiện
thuận lợi cho cán bô, bộ đội ta về xây dựng cơ sở cách mạng, phát triển lực
lượng và tổ chức các hoạt động đánh địch ngay trong lòng địch, biến hậu phương
địch thành hậu phương của ta. Phong trào diệt tề, trừ gian thực chất là cuộc
nỗi dậy của nhân ta vùng sau lưng địch, đánh mạnh vào bộ máy chính quyền tay
sai của thực dân Pháp, đánh vào âm mưu “ Dùng người Việt đánh người Việt” của
địch. Công tác diệt tề trừ gian ở Bố Trạch đã để lại nhiều kinh nghiệm quý đối
huyện Bố Trạch và các địa phương trong tòan tỉnh về việc: phân hóa hàng ngũ
địch, việc nắm bắt các hoạt động của địch, việc tổ chức lực lượng diệt tề, trừ
gian, việc đưa “ Đại đội độc lập” về cơ sở tham gia cùng dân quân du kích chiến
đấu và diệt tề, trừ gian là một quyết định đúng đắn, sáng tạo và kịp thời đã hổ
trợ một cách đắc lực đưa phong trào “du kích chiến tranh” ngày càng phát triển
mạnh mẽ
Cuối tháng 12-1948, trước yêu cầu tăng cường cán bộ lãnh đạo cho các huyện,
Tỉnh đội Quảng Bình đã điều đồng chí Trần Đức huyện đội trưởng Bố Trạch ra phụ
trách huyện đội trưởng Tuyên Hóa và quyết định đồng chí Phan Khắc Hy thường vụ
huyện ủy phụ trách huyện đội trưởng, đồng chí Tâm huyện đội phó, đồng chí Đặng
Gia Hy chính trị viên. Tháng 4-1949, đồng chí Tâm sau khi dự học lớp
trung cấp quân sự ở Liên Khu về được giao phụ trách huyện đội trưởng thay đồng
chí Phan Khắc Hy nhận nhiệm vụ quyền Bí thư huyện ủy thay đồng chí Quách xuân
Kỳ vào làm Bí thư thị xã Đồng Hới* ( Đại hội lần thứ hai Đảng bộ Bố Trạch
ngày 20-3-1949, đồng chí Phan Khắc Hy được bầu làm Bí thư huyện Đảng bộ)
Để nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng toàn Liên
khu, ngày 4-2-1949 Liên khu ủy và bộ chỉ huy Liên khu 4 đã tổ chức hội nghị
quân chính đã quyết định: “ Tăng cường sức chiến đấu của bộ đội. Mở rộng chiến
tranh du kích...phát động cuộc vận động luyện quân lập công trong các lực lượng
vũ trang làm cơ sở để xây dựng bộ đội chủ lực...nâng cao trình độ dân quân tập
trung ở tỉnh, huyện và du kích cơ sở bảo vệ địa phương...”* ( Lịch sử LLVTND tỉnh
Quảng Bình, tr 62, 63).
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh đội Quảng Bình, Ban chỉ huy Huyện đội bộ Bố Trạch
đã chỉ đạo các Ban trong cơ quan huyện đội, Đại đôi 4, xã đội và dân quân du
kích toàn huyện triển khai học tập chủ trương của Hội nghị quân chính Liên khu
và phát động cuộc vận động “Luyện quân lập công”. Đợt học tập đã diễn ra sôi
nỗi trong toàn lực lượng vũ trang Huyện trên tinh thần vùa học tập chính trị
vừa tổ chức chiến đấu, kết hợp đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, huấn luyện
quân sự đáp ứng tốt yêu cầu chiến đấu tập trung khi có các hoạt động quân
sự lớn, đồng thời phải đảm bảo được khả năng chiến đấu độc lập bảo vệ
làng,xã. Ban chỉ huy Huyện đội bộ xây dựng và hướng dẫn chương trình, kế hoạch
huấn luyện về chính trị, quân sự gồm thế nào là chiến tranh nhân dân, cách thức
vận động xây dựng lực lượng đấu tranh chính trị trong quần chúng nhân dân, xây
dựng lực lượng vũ trang địa phương, tổ, đội chiến đấu, chiến tranh du kích...kỹ
thuật sử dụng bom, mìn, vũ khí tự tạo...Chính từ việc “ Luyện quân lập công đã
đưa đến chất lượng chiến đấu của bộ đội, dân quân du kích được nâng lên một
bước, tại thôn Ngọn Rào vùng tự do của xã Phúc Trạch, du kích đã có nhiều
hình thức đánh địch táo bạo gài bom đạp, bom vướng, giật địa lôi, đánh địch đi
lùng ngay trong thôn làm cho kẻ địch vô cùng hoang mang, khiếp sợ; quần chúng
vô cùng phấn khởi, tin tưởng vào lực lương dqqn quân, du kích địa phương. Ngày
12-2-1949, bộ đội và dân quân du kích tập kích đồn Rào Bùng. Ngày 16-2-1949, du
kích tập kích đồn Võ Thuận, đồn Thanh Khê...tiêu diệt và làm bị thương nhiều
tên địch.
Ngày 26-2-1949, Hội nghị Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4 họp đã tuyên
dương 20 đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc qua hai năm kháng chiến.
Huyện Bố Trạch được Liên Khu tuyên dương: “ Huyện Bố Trạch đã chiến đấu anh
dũng nhất và đã gây thiệt hại nhiều nhất cho địch. Dân quân du kích cũng như
chính quyền và các đoàn thể nhân dân vững nhất trong tỉnh. Mặc dù toàn huyện ở
vùng địch tạm chiếm, phong trào diệt tề vừa rồi thu được nhiều kết quả hơn
cả...”*. “Làng Hoàn Lão là làng chiến đấu ở đồng bằng ngay trong lòng địch. Cán
bộ Đảng đã lãnh đạo nhân dân giữ vững phong trào liên tục. Nhiều cán bộ tỉnh,
huyện về hoạt động nhưng không ai bị bắt. Địch đóng nhiều vị trí trong thôn mà
tòan dân vẫn giữ vững tinh thần kháng chiến. Triệt để giữ vững bí mật; mặc dù
bị tra tấn dã man nhưng vẫn gan dạ chịu đựng. Tất cả dân chúng nhất định không
chịu hợp tác với Pháp. Chứng cứ là trường học Pháp mở ra phải đóng cửa vì không
có học sinh. Dân chúng lại nêu cao ting thần đấu tranh và đã làm cho địch nao
núng và nhượng bộ nhiều lần. Dân quân du kích đã biết dùng vũ khí thô sơ,
phương tiện đơn giản giết được 100 tên Pháp, lật đổ 8 xe các loại, thu được 3
súng. Du kích Hoàn Lão được Liên Khu tặng cờ danh dự, Chính phủ tặng Huân
chương kháng chiến hạng nhì..”**
Về cá nhân “ Ông Quách Xuân Kỳ, chủ nhiệm Việt Minh huyện xung phong len lỏi
vào vùng địch chiếm để gây dựng lại cơ sở bị tan rã và đã gây dựng được phong
trào Bố Trạch tiến nhanh về mọi phương diện, đoàn thể nhân dân cũng như chính
quyền..”***( Biên bản Hội nghị UBKCHC Liên Khu 4 từ ngafy26-2-7-3-1949,
tài liệu đánh máy, lưu trử tại Ban tuyên giáo huyện ủy Bố Trạch-tập 1949).
Bên cạnh các làng
được Liên Khu 4 tuyên dương, Bố Trạch còn có nhiều làng có thành tích xây dựng
vùng du kích, vùng tự do, đánh giặc bảo vệ làng, như: làng Hỷ Duyệt, Hòa Duyệt,
phương Hạ..làng Cao Nguyên ( xã Mỹ Trạch hiện nay) đã xây dựng làng chiến đấu
trở thành một vùng du kích kiên cố của xã Bắc Trạch, là một bàn đạp vững chắc
cho cán bộ, bộ đội, dân quân du kích về hoạt động tiêu diêt địch, xây dựng cơ
sở kháng chiến ở các làng của xã Bắc Trạch.
Qua hơn hai năm kháng chiến, tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang huyện không
ngừng được củng cố và phát triển một bước hết sức quan trọng. Từ chổ ban đầu
chỉ có một số đảng viên hoạt động và sinh hoạt chung trong cơ quan Huyện ủy,
trãi qua chiến đấu và yêu cầu của nhiện vụ đặt ra, Chi bộ Đảng trong cơ quan
Huyện đội bộ và Đại đội du kích thường trực của huyện được thành lập. Chính từ
đây dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thương vụ Huyện ủy, của Huyện ủy
công tác xây dựng Đảng cả về chính trị tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ trong
lực lượng vũ trang huyện ngày càng được quan tâm đúng mức, từng bước đi vào
nề nếp và nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng. Về công tác chính trị, tư
tưởng, Chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ đến Chi bộ Đảng tại đơn vị chiến đấu đã
biết nắm bắt đường lối kháng chiến: “ Toàn dân, toàn diện, trường kỳ
kháng chiến, ta nhất định thắng, địch nhất định thua” của Nghị quyết của
Ban châp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, kế hoạch Tỉnh
đội và thực tế công cuộc kháng chiến của huyện nhà để làm tốt công tác giáo
dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
chiến sĩ. Chính từ đó làm cho cán bộ chiến sĩ ngày càng tin tưởng sâu sắc hơn
đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Do đó, mặc dù từ
những người nông dân chỉ biết cầm cày, cầm cuốc chuyển sang cầm súng chiến đấu
với biết bao gian khổ, khó khăn, họ vẫn sẵn sàng hy sinh cả tính mạng bảo vệ
Đảng, bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được trong cuộc chiến đấu sinh
tử với kẻ thù. Về công tác tổ chức cán bộ, từ chổ có rất ít đảng viên đa số là
những cán bộ làm công Tác chính trị trong Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành
chính được điều về phụ trách công tác chính trị, công tác quân sự và công tác
Đảng. Song dưới sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện của Thường vụ huyện ủy, của cấp
ủy huyện mà trực tiếp là của đồng chí Phan Khắc Hy thường vụ huyện ủy phụ trách
công tác chính trị Huyện đội bộ, công tác tổ chức cán bộ trong cơ quan Huyện
đội đến đơn vị chiến đấu được quan tâm đúng mức công tác phát triển Đảng. Thông
qua thực tế chiến đấu và công tác, chi bộ đảng đã kịp thời phát hiện, bồi dưỡng
những cán bộ, chiến sỉ có đầy đủ phẩm chất chính trị, lòng trung thành với cách
mạng, dũng cảm trong chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giới thiệu
kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1948, tính trong cơ quan huyện đội bộ và đại đội
4 có 22 đảng viên, trong đó Chi bộ cơ quan Huyện đội bộ có 13 đảng viên. * ( theo
số liệu thống kê đảng tịch năm 1952-1953, tài liệu lưu trử tại Ban tuyên giáo
huyện ủy Bố Trạch) Ngoài việc chú trọng công tác phát triển Đảng trong đơn
vị thì trong quá trình làm nhiệm vụ “ Đại đội độc lập” của đại đội 4, các đồng
chí chính trị viên trung đội, cán bộ, đảng viên trong các trung, tiểu đội đã
phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đảng địa phương làm tốt công tác bồi dưởng, giáo
dục giới thiệu, kết nạp đảng viên mới ở cơ sở. Tuy vậy do đặc thù của một lực
lượng chiến đấu, quân số hoạt động phân tán trãi rộng trên khắp địa bàn toàn
huyện, ít có điều kiện tập trung nên gặp nhiều khó khăn trong công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, công tác tạo nguồn, phát triển Đảng có lúc theo cảm tính,
chủ quan của người giới thiệu, chỉ thấy hăng hái trong công tác,dũng cảm trong
chiến đấulà phát triển, không lấy điều lệ Đảng, đương lối kháng chiến để tuyên
truyền lý tưởng, nâng cao nhận thức chính trị cho người vào Đảng.
Bước sang năm 1949, tình hình kháng chiến ở Bố Trạch xuất
hiện nhiều yếu tố thuận lợi cho ta, nhưng cũng nảy sinh nhiều vấn đề gây cho
phong trào kháng chiến của ta không ít những khó khăn. Đối với địch, ngày
15-1-1949 quân Pháp tập trung bố trí lại lực lượng, cho lính nhảy dù xưống đóng
đồn ở xóm ngoài làng Lý Hòa, ngày 31-1chúng rút đồn Đá Đen. Để thực hiện âm mưu
“ Rào chiến khu, chốt cửa vào Nam” đối với các lực lượng kháng chiến của ta,
thực dân Pháp cho thành lập các đội “ Can cường”*( Đây là những đội lính
xung kích đi đầu trong các cuộc càn quét, lùng sục, đánh phá của địch)đi đầu
trong các cuộc lùng sục, càn quét, đánh phá phong trào kháng chiến. Chúng tung
gián điệp vào vùng du kích, vùng tự do cua ta để dò la, nắm tình hình, móc nối
xây dựng cơ sở tuyển mộ tay sai, tuyên truyền chống phá kháng chiến...Chúng cho
quân phong tỏa, chốt chặn các tuyến đường giao thông liên lạc, vận tải, đẩy
mạnh các hoạt động phá hoại mùa màng, cướp phá thóc gạo, thực phẩm, bao vây
kinh tế .
Đầu tháng 2-1949, quân Pháp ở Bố Trạch bố trí lại lực lượng, toàn huyện có 4
khu vực chính: Khu vực phía Bùng gồm một phần của xã Sơn Trạch-Phúc Trạch, sở
chỉ huy đặt tại làng Cổ Giang. Khu vực phía sông Gianh bao gồm xã Bắc Trạch và
làng Lý Hòa, sở chỉ huy đặt tại Thanh Khê. Khu vực trung tâm huyện gồm các xã
Nam Trạch, Trung Trạch, Tây Trạch và các làng Đồng Cao, Quy Đức, Hoàn Phúc, Vạn
Lộc, Thọ Lộc, Hỷ Duyệt, Cự Nẫm, sở chỉ huy đóng tại Hòan Lão. Đội can cường (
Compagnie de choc) đóng tại làng Lý Hòa.*(Tình hình mặt trận-b/c của UBKCHC
Quảng Bình tài liệu đã dẫn)
Với việc tăng cường và bố trí lại lực lượng, thực dân Pháp quyết tâm thực hiện
bằng được âm mưu biến mỗi vùng đất ở Bố Trạch thành những “ Vùng máu”. Ngày
1-1-1949 bị du kích Hoàn Lão nổ bom ngay trước cửa đồn Hoàn Lão, tiêu diệt một
số tên địch, bọn địch đồn Hoàn Lão đã cho pháo bắn hàng chục quả đạn vào xóm
Đình, xóm Treo giết chết gần 20 người dân, bị thương hơn 10 người, đốt cháy hơn
70 ngôi nhà. Ngày 5-1-1949, địch tập trung hơn 200 quân đánh phá ác liệt vào
làng Hỷ Duyệt, ngày 24-1-1949, địch càn vào Bồng Lai, đốt phá sạch nhà cữa,
vườn tược, giết hàng chục con trâu bò và bắt toàn bộ dân Bồng Lai đưa về khương
hà. Bồng lai trở thành vùng trắng hoang vu..
Để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến toàn huyện, ngày 20-3-1949, Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện Bố Trạch lần thứ 2 được tổ chức tại khu căn cứ Cao Mại ( Tuyên
Hóa). Sau khi đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
nhất và phong trào kháng chiến hai năm qua. Đại hội đề ra nhiệm vụ: Tập trung
lực lượng củng cố và mở rộng cơ sở cách mạng ở những nơi phong trào yếu; phát
động nhân dân tăng gia sản xuất, khôi phục nền kinh tế, bao vây kinh tế
địch, củng cố nền giáo dục nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động quân sự đánh
địch, diệt tề trừ gian, phá tan các âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát
triển du kích chiến tranh sâu rộng trong toàn dân. Tuyên truyền kêu gọi những
người đi theo giặc trở về với kháng chiến. Về công tác xây dựng Đảng: Đảng bộ
phải kiện toàn về tổ chức, phát triển đảng viên chú trọng giáo dục chính trị,
nâng cao lý luận cho đảng viên. Kiên quyết sữa chữa những tư tưởng sai lầm, cãi
tiến lề lối làm việc, kiện toàn sự lãnh đạo của các cấp ủy.
Tiếp đó, ngày 6-4-1949, Thường vụ huyện ủy họp hội nghị bàn về công tác đồng
bằng. Hội nghị quyết định duy trì: “ Đại đội độc lập” và nhấn mạnh việc tăng
cường sức chiến đấu cho lực lượng dân quân du kích, đưa cán bộ, bộ đội tiếp tục
về bám dân củng cố cơ sở, tổ chức đánh địch, phát triển phong trào những địa
phương còn yếu. Tư tưởng chỉ đạolà: “Tập trung ở đồng bằng chứ không phải ở
chiến khu”, khẩu hiệu hành động là: “ Biến hậu phương địch thành cơ sở vững
chắc của ta”.
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 2 và Nghi quyết hội nghị
thường vụ huyện ủy, để đáp ứng yêu cầu lâu dài của cuộc chiến đấu. Ngày
6-4-1949, Đại đội 4 của Huyện được chuyển thành đại đội 363 Vệ quốc đoàn
và tiếp tục làm nhiệm vụ “ Đại đội độc lập”. Đại đội 363 lúc này do đồng chí
Hoàng Tấn Ất làm Đại đội trưởng, đồng chí Trương Quế chính trị viên. Sau khi
đồng chí Trương Quế mất, đồng chí Hồ Xuân Đạt (*quê Lý Hòa) thay chính trị
viên, khi đồng chí Đạt vào Gio Linh, đồng chí Trần Thanh Đạt **( quê Vĩnh Linh) thay
chính trị viên. Đại đội 363 có 3 trung đội: Trung đội 1 do đồng chí Cao Tức
***( quê Văn Hóa) trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Lịch ****( quê
Quảng Trị) trung đội phó; Trung đội 2 do đồng chí Lương Kính *****( quê
Văn Hóa) phụ trách trung đội trưởng, đồng chí Ngọ trung đội phó; Trung đội 3
đồng chí Nguyễn Văn Đô ( ******quê Hàm Ninh) trung đội trưởng, đồng chí
Luật trung đội phó. Đầu năm 1950, để đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ các tuyến
đường giao thông liên lạc Bố Trạch, Huyện đội bộ quyết định thành lập trung đội
4 mang phiên hiệu trung độ 300 còn gọi là trung đội “đào lộ” trực thuộc đại đội
363, giữa năm 1950 trung đội 300 được tách khỏi đại đội 363 thành lập đại đội
300 trực thuộc Huyện đội bộ. Để đảm bảo cho đại đội 363 hoàn thành nhiệm
vụ cơ động chiến đấu trên địa bàn được đảm nhiệm, Huyện đội bộ chỉ đạo các xã
đội thành lập “ Tổ du kích đặc biệt” có nhiệm vụ phối hợp với các tổ “ Công an
đặc biệt” nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác diệt tề, trừ gian. Các đồng chí cán
bộ trong cấp ủy, lãnh đạo Huyện đội bộ và đảng viên trong cơ quan huyện đội chủ
động trong công tác đi về bám sát cơ sở nghiên cứu tình hình, chỉ đạo, giúp xã
đội và dân quân du kích các xã triễn khai nhiệm vụ huấn luyện, công tác dân
vận, hoạt động chiến đấu đánh địch.
Ra đời trong bối cảnh lịch sử ngày đầu của cuộc kháng chiến, trãi qua hơn hai
năm xây dựng và chiến đấu, nhất là từ khi tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy trong
lực lượng vũ trang huyện được thiết lập và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện của Huyệ ủy, Chi bộ cơ quan Huyện đội bộ và Ban chỉ huy huyện đội đã từng
bước xác định được nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền Huyện về
công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác xây dựng lực
lượng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn. Việc thành lập Chi
bộ Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ khẳng địng vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với lực lượng vũ trang toàn huyện. Từ đây công tác lãnh đạo, chỉ huy mọi
hoạt động của cơ quan Huyện đội bộ nói riêng và toàn lực lượng vũ trang trên
địa bàn đều được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của chi bộ Đảng. Điều đóa cho
thấy qua hai năm vừa xây dựng, vừa chiến đấu lực lượng vũ trang huyện càng đánh
càng mạnh, càng trưởng thành, xứng đáng là lực lượng nồng cốt trong chiến tranh
nhân dân, xứng đáng vớisự tin cậy của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện. Đó là cơ
sở vững chắc để cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện vững tin
bước vào trận chiến mới.
III- TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ-TƯ TƯỞNG, LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG PHỐI HỢP CHẶT CHẼ VỚI BỘ ĐỘI CHỦ LỰC HƯỞNG ỨNG CAO TRÀO “ QUẢNG BÌNH QUẬT
KHỞI”, GIỮ VỮNG THẾ TIẾN CÔNG, CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ.
Bước sang năm 1949, cục diện
trên chiến trường Đông Dương có nhiều chuyển biến tích cự có lợi cho cuộc kháng
chiến của nhân dân ta. Thực dân Pháp từ chổ đánh nhanh, thắng nhanh buộc phải
chuyển hướng chiến lược sang đánh lâu dài, chúng ra sức củng cố vùng chiếm
đóng, dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Trong
lúc đó cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang trên đà thắng lợi, lực lượng ta
trưỡng thành nhanh chóng. Phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp,
hậu phương kháng chiến ngày càng được củng cố và mở rộng. Nhiều cơ sở chính trị
và quân sự của ta được xây dựng ngay trong lòng địch.
Ở Quảng Bình sau khi chiếm trọn vùng đồng bằng ven biển, địch đã đẩy được toàn
bộ cán bộ, bộ đội ta lên miền trung du phía tây. Quảng Bình sớm trở thành chiến
trường ác liệt, nơi giằng co quyết liệt, phức tạp giữa ta và địch cả về chính
trị, kinh tế và quân sự. Đứng trước tình hình đó, ngày 26-1-1949 Tỉnh ủy họp
Hội nghị, quán triệt tinh thần “ phải bám lấy dân để kháng chiến” thực hiện nội
dung này các Đảng bộ huyện Bố Trạch và Quảng Trạch đã tập trung chỉ đạo từng
bước củng cố đưa phong trào kháng chiến ngày càng phát triển đi lên. Ở phía Nam
của tỉnh, hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy tuy đã đưa phong trào lên một bước
mới, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn và đang là hậu phương an toàn của địch.
Trong bối cảnh lịch sử đó, ngày 14-5-1949 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình lần thứ 2 được tổ chức tại Kim Bảng-Tuyên Hóa. Đại hội đã nghiêm túc đánh
giá, kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc kháng chiến của nhân dân
Quảng Bình do Đại hội lần thứ nhất đề ra. Đại hội nhận định:..Nhìn toàn cục,
phong trào kháng chiến nghiêng hẵn về hai huyện phía Bắc là Bố Trạch và Quảng
Trạch, hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy địch vẫn thực hiện được kế hoạch đánh phá,
bình định, chia cắt của chúng...Đại hội nêu khẩu hiệu hành động: “miền Nam mạnh
là Quảng Bình mạnh” *( miền Nam mạnh đó là hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy) và
“ Rời chiến khu, thực hiện hạ sơn, bám dân, bám làng hoạt động” **( Nghị
quyết Đại hội tỉnh đảng bộ lần tứ 2 lịch sử Đảng bội tỉnh Quảng Bình tập 1 tr
219). Đại hội quyết định phát động cao trào kháng chiến mang tên: “ Quảng Bình
quật khởi”.
Để chuẩn bị tốt về tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, dân quân du kích và
nhân dân trước khi “ Hạ sơn” về đồng bằng trong ngày “ Quảng Bình quật khởi”.
Trong 4 ngày từ 21 đến 24-5-1949, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện
Bố Trạch đã tổ chức Hội nghị Kháng chiến hành chính toàn huyện; điều đặc biệt
tại Hội nghị này, ngoài đại biểu đại diện cho lãnh đạo của huyện và các ban
ngành cấp huyện, lãnh đạo các xã còn có nhiều đại biểu là các Cụ ông, các mẹ,
các chị phụ nữ không phải là đảng viên cũng được mời về tham dự. Hội nghị đã
nghe báo cáo đánh giá tình hình và thắng lợi của quân và dân Bố Trạch qua hơn
hai năm kháng chiến; các Đại biểu dự hội nghị bày tỏ quyết tâm và niềm tin lớn
lao vào sức mạnh chiến đấu của quân và dân toàn Huyện và sự tất thắng của công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, trong hai ngày 25-26-5-1949, Huyện ủy đã tổ
chức Hội nghị cấp ủy mở rộng, phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ
II. Hội nghị thấy rõ tình hình thuận lợi và những khó khăn chung của
phong trào kháng chiến trong toàn tỉnh nói chung và của Bố Trạch nói riêng qua
hơn hai năm đầu của cuộc kháng chiến và chủ trương “..rời chiến khu, thực hiện
hạ sơn về đồng bằng bám dân, bám đất hoạt động” của Tỉnh ủy. Hội nghị nhận thấy
muốn thực hiện tốt chủ trương “ Hạ sơn” cần phải khắc phục tư tưởng cầu an, ỷ
lại trong một số cán bộ đảng viên, bộ đội, dân quân du kích và nhân dân, nêu
cao tinh thần dám đánh, toàn dân đánh giặc...Từ đó Hội nghị Huyện ủy mở rộng hạ
quyết tâm hưởng ứng tích cực phong trào “ Hạ sơn” do Tỉnh ủy phát động với một
ý chí: Đánh “ Chết có kể à”.
Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy và của Tỉnh đội Quảng Bình, Chi bộ Đảng cơ
quan Huyện đội bộ và chi bộ Đảng đại đội 363, tổ chức phổ biến cho cán bộ, đảng
viên và chiến sĩ nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện và Nghị quyết, chủ
trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh, nhằm chấn chỉnh các lệch lạc về nhận
thức tư tưởng, nắm vững các nhiệm vụ, nhất là công tác chuẩn bị đầy đủ mọi mặt
hưởng ứng cao trào “ Quảng Bình quật khởi”, “ Hạ sơn” về đồng bằng bám dân, bám
đất đẩy mạnh hoạt động kháng chiến theo tinh thần quyết tâm: Đánh “ chết có kể
à” của cán bộ đảng viên và nhân dân toàn huyện.
Giữa năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên đà phát triển mạnh,
thực dân Pháp ngày càng lâm vào cảnh bị động lúng túng. Chính phủ Pháp cấp tốc
cử tướng Rơ-ve ( Rever), tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương
nghiên cứu tình hình và vạch kế hoạch đối phó. “Kế hoạch Rơ-ve” ra đời với nội
dung cơ bản là: Nhanh chóng phát triển quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập
trung quân Au Phi làm nhiệm vụ cơ động, càn quét đánh phá phong trào chiến
tranh du kích và mở các cuộc tiến công tiêu diệt quân chủ lực Việt Minh, cải
thiện tình thế. Thực hiện “ Kế hoạch Rơ-ve”, quân Pháp ở Quảng Bình lập hành
lang chốt giữ dọc theo tỉnh lộ số 4 ra đến tỉnh lộ 2 ( từ Thượng Lâm-Lệ Thủy ra
Sen Bàng, Trooc đến Tiên Lễ-Quảng Trạch). Với một hệ thống đồn bốt dày đặc nối
tiếp nhau, quân Pháp hòng bịt chặt cữa ngõ chiến khu và uy hiếp các tuyến đường
giao thông liên lạc, vận tải hàng hóa của ta ở hướng Tây. Ở vùng đồng bằng và
vùng địch hậu, quân Pháp tăng cường vây ráp, phục kích, lùng sục bắt bớ cán bộ,
cướp đoạt hàng hóa, của cải của nhân dân ta.
Sau khi đổi phiên hiệu từ đại đội 4 thành đại đội 363 bộ đội địa phương, đạo
đội đã cùng bộ đội chủ lực tỉnh, Liên khu làm chổ dựa cho dân quân du
kích hoạt đông ngày càng hiệu quả. Ngày 10-7-1949, du kích Sơn Trạch và
Phúc Trạch giật bom phá đường Phong Nha-Trộ Rớ, phá cầu Hà Lời. Du kích Hoàn
Lão phục kích địch từ Sen Bàng về Hoàn Lão diệt 32 tên, bắt sống 2 tên, thu
toàn bộ vũ khí và một két bạc Đông Dương.*( Do đồng chí Nguyễn Đổng, nguyên
chính trị viên Huyện đội Bố Trạch cung cấp).
Ngày 5-7-1949, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng để chuẩn bị cho “Tuần lễ tổng
tiến công”. Hội nghị chủ trương: Phải tổ chức toàn dân đánh giặc với mọi hình
thức, phát triển du kích chiến tranh. Xây dựng xã đội, thôn đội tự động công
tác; bảo đảm công tác hậu phương. Gấp rút thực hiện “ Đại đội độc lập” để đẩy
mạnh phong trào dân quân du kích lên đều...Thực hiện chủ trương Hội nghị Tỉnh
ủy, đồng chí Bí thư Huyện ủy và Huyện đội trưởng Bố Trạch đã về tận cơ sở kiểm
tra, nghiên cứu tình hình, xây dựng kế hoạch, phương án chiến đấu cho các địa
phương, đơn vị ( Sơn Traich và tiểu đoàn 436). Tại xã Bắc Trạch, phương án
chiến đấu chia làm hai khu vực: khu đông gồm có Ba Đề, Thanh Khê; khu tây gồm
có: Cao Lao Hạ, Cao Nguyên; mỗi khu có một Ban chỉ huy chung có nhiệm vụ tổ
chức lực lượng quấy rối đồn bốt địch, đốt hàng rào, chôn bom, gài lựu đạn, phục
kích, tập kích; đồng thời phát động nhân dân đấu tranh.
Nhằm tăng cường và thống nhất công tác lãnh đạo, chỉ huy của các lực lượng vũ
trang trên địa bàn Huyện ( Gồm có tiểu đoàn 436, trung đoàn 18, đại đội 1, đại
đội 7 chủ lực bộ đội địa phương tỉnh, đại đội 363, dân quân du kích địa phương
huyện). Ngày 12-7-1949, Thường vụ Huyện ủy tổ chức họp với đại diện Huyện đội,
tiểu đoàn 436 bàn kế hoạch phối hợp, và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị. Các
đại đội 7 và đại đội 363 có trách nhiệm xây dựng cơ sở, phát triển du kích
chiến tranh ở các xã. Tiểu doàn 436 làm nhiệm vụ nghiên cức trận địa đánh tiêu
diệt địch, hỗ trợ công tác phát động du kích chiến tranh và đấu tranh của quần
chúng.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II, hoạt động
kháng chiến của quân và dân các địa phương trong Tỉnh có chuyển biến mạnh mẽ.
Tại nhiều nơi, dân quân du kích phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
bao vây, tiến công địch. Đúng 24 giờ, ngày 15-7-1949 đại đội 2 tiểu đoàn 274
cùng du kích xã Gia Ninh đột kích vào đồn Mỹ Trung. Đồng bào hai huyện Quảng
Ninh và Lệ Thủy cùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích đồng loạt nỗi dậy tiến
công địch, đốt tháp canh của hương vệ, tổng vệ. Trưa ngày 16-7-1949, quân và
dân Lộc Long đã chôn bom ở đầu làng đánh bọn địch ở đồn Xuân Dục đi lùng. Bị
đánh bất ngờ, tên đồn trưởng và 1 tên lính bị thương, bọn địch hốt hoảng vội vã
kéo chạy về đồn. Chiến thắng Lộc Long mở màn cho cao trào “ Quảng Bình quật
khởi” “ Hạ sợ” về đồng bằng hoạt động.
Bố Trạch là một huyện có phong trào kháng chiến phát triển mạnh, trong tuần lễ
“ Quảng Bình quật Khởi” khắp các địa phương ở chiến khu, vùng tự do, vùng du
kích; cán bộ đảng viên, bộ đội, dân quân du kích nô nức “ Hạ sơn” về đồng bằng
với một tinh thần “ Chết có kể à”; dân quân du kích trong vùng sau lưng địch
đồng loạt tiến công quấy phá đồn, chặn đánh bọn địch đi lùng sục, đánh phá.
Ngày 15-7, bộ đội 363 phối hợp với du kích phục kích, giật bom đánh một tung
đội địch ở đồn Hoàn Lão đi tuần, tiêu diệt 11 tên trong đó có 2 lính pháp. Ngày
16-7, du kích Lý Hòa tấn công vào một tàu tuần tiểu của địch trên sông Lý Hòa. Ngày
16-7, du kích Hoàn Lão giật bom tại cổng Lò rèn, cửa đồn Hoàn Lão, phường Bún.
Du kích Phúc Tự bắt tên xạ Khước. Du kích Nam Trạch đốt hàng rào đồn Chánh Hòa.
Du kích Bắc Trạch quấy rối đồn Cao Lao diệt 2 tên Pháp, làm bị thương 6 tên.
Ngày 18-7, du kích Trung Trạch chặn đánh bọn địch đi tuần đường diệt 23 tên có
2 sy quan Pháp. Trong 2 ngày 19, 20, du kích Hiền Sơn, Thuận Phú (Hải Trạch)
gài lựu đạn đánh bọn địch từ Thanh Khê vào Lý Hòa lên đồn Đồng Bơi diệt 3 tên,
làm bị thương 8 tên. Ngày 20-7, tiểu đoàn 436 phối hợp với du kích phục
kích tại cầu Khe Nước phía bắc đèo Lý Hòa chặn đánh bọn địch ở đồn Thanh
Khê đi tuần đường, tiêu diệt 11 tên trong đó có 1 quan 2 đồn trưởng và 3 lính
Pháp. Đây là trận đánh diễn ra giữa ban ngày có bộ đội chủ lực Liên khu
tham gia vì thế chiến thắng ở cầu Khe Nước đã gây một tác động lớn về
tinh thần trong cán bộ chiến sĩ và nhân dân trong vùng và cũng gây nên nỗi
hoang mang, lo sợ đối với bọn địch.
Cùng vào thời gian này, du kích xóm Cồn, xóm Rậy ( Tây Trạch) phối hợp với tiểu
đoàn 436 bố trí phục kích tại thôn Phú Lễ ( Vạn Lộc) trên đường tỉnh lộ 2 chặn
đánh một trung đội địch từ đồn Thọ Lộc về Hoàn Lão, diệt 9 tên, bắt sống 7 tên,
thu 21 súng. Ngày 21-7, du kích Hoàn Lão phá cầu Hói cắt đứt giao thông địch trong
7 ngày. Ngày 22-7, nhân lúc bọ địch ở đồn Cự Nẫm kéo nhau đi tắm, du kích Cự
Nẫm bí mật đột nhập đốt cháy đồn và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quan trang, quân
dụng. Cùng ngày du kích Phúc Trạch giật bom trên đoạn đường Trooc-Khe Ngang
điệt và làm bị thương một số tên địch. Cũng trong thời gian này du kích xóm
Dài, xóm Hổ, xóm làng, xóm Làng, xóm Chùa ( Tây Trạch) phối hợp với bộ đội
trung đoàn 57 phục kích cây Đa gần làng Võ Thuận chặn đánh bọn địch đi càn ở
xóm Rậy, xóm Cồn, diệt 6 tên, bắn bị thương 11 tên trong đó có tên Căng khét
tiếng gian ác có nhiều nợ máu với nhân dân Vạn Lộc và Hoàn Phúc.
Phong trào chiến tranh du kích và tự động công tác phát triển mạnh làm cho kẻ
địch càng bị động, lúng túng, đồng chí Tý thôn trưởng Quy Đức ( Hải Trạch) giật
bom, dây bị đứt chỉ còn 10m vẫn lao lên giật tiếp cho bom nổ. Ở thôn Thuận Phú
( Hải Trạch), địch đi càn dọa đốt nhà, đồng bào xã định: đằng nào nó cũng đốt,
cứ để cho du kích giật bom giết địch.
Trên mặt trận giao thông, trong 9 tháng đầu năm 1949, các địa phương đã huy
động được 3.826 người tham gia vận tải hàng hóa , phá 86 cầu, 16 cống, đào được
582m đất đá phá đường giao thông làm gián đoạn các hoạt động vận tải của địch.
Đi đôi với hoạt động quân sự, công tác võ trang tuyên truyền cũng được các xã
đội đẩy mạnh ráo riết như rãi truyền đơn, dán khẩu hiệu kêu gọi binh lính địch
bỏ súng quay về với kháng chiến.
Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động chính trị và vũ trang toàn huyện tập trung
đẩy mạnh hoạt động bao vây kinh tế địch. Nhiều địa phương, nhân dân đã vận động
nhau không mua, không dùng hàng hóa địch, chống tư tưởng đề cao hàng ngoại hóa.
Lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích tích cực ngăn chặn, cắt đứt các
tuyến đường vận tải hàng hóa của địch..khiến cho việc vận tải tiếp tế lương
thực, thực phẩm, thuốc men đến các đồn, nơi đóng quân của địch gặp nhiều khó
khăn. Việc ta bao vây kinh tế đã đánh một đòn mạnh vào âm mưu của địch là tung
hàng hóa xa xỉ phẩm ra vùng tự do của ta để thu hút thóc gạo và thực phẩm đưa
về vùng địch kiểm soát và âm mưu dùng hàng hóa để mua chuộc cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân ta. Tuy nhiên với việc bao vây kinh tế địch cũng gây không ít khó khăn
đối với các lực lượng kháng chiến của ta nhất là vùng sau lưng địch, hàng hóa
khan hiếm, giá cả tăng cao, đời sống gặp nhiều khó khăn.
Tuần lễ “ Quảng Bình quật khởi” ( 15-7-22-7) đã làm xoay chuyển tình thế kháng
chiến trong toàn tỉnh nhất là hai huyện phía Nam. Từ chổ bị động, lúng túng, bị
địch kìm kẹp, bao vây, khủng bố, quân và dân ta đã chuyển sang thế tiến công
vây hãm địch, đẩy chúng vào lúng túng, bị động “...Tuần lễ này là một mũi dùi
đâm vào cái nhọt đã mưng mủ lâu ngày. Nó là điểm đột biến của phong trào...nó
tập trung được mọi lực lượng quân, dân, chính, Đảng thống nhất được hành động
toàn tỉnh, kết hợp được các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế. Vì vậy
nó đủ sức để vực dậy phong trào lên, làm cho quân địch choáng váng không biết
chổ nào mà chống đỡ, chuyển được thế yếu của ta thành thế mạnh, dồn địch từ thế
mạnh sang thế yếu.* ( B/c Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ III-
sách L/s LLVT tỉnh Quảng Bình ( 1945-1975) nxb Qđnd H 2004 tr 71)
Đánh giá tuần lễ “ Quảng Bình quật khởi” ở Bố Trạch, hội nghị sơ kết của Huyện
ngày 22-7-1949 nhận địng: Tuần lễ “ Quảng Bình quật khởi” trọng điểm là miền
Nam tỉnh. Trong tuần lễ phát động, Bố Trạch cũng hoạt động mạnh vì có sự chỉ
đạo kịp thời, có kế hoạch cụ thể cho dân chúng. Biết động viên phát huy thắng
lợi, nên dân quân hoạt động khắp nơi quấy rối, phá hoại, vũ trang tuyên truyền,
trừ gian, diệt tề, bãi thị, canh gác. Du kích tự động thi đua giết giặc. Các
tầng lớp phụ nữ, phụ lão, thiếu niên tham gia canh phòng, phá hoại, vận tải,
trinh sát, bao vây kinh tế địch. Tuy vậy dân quân du kích còn coi trọng những
trận đánh lớn mà chưa nhận rõ giá trị những hoạt động nhỏ, việc tổ chức tránh
giặc chưa tích cực.
Sau tuần lễ “ Quảng Bình quật khởi” tỉnh
Đảng bộ dồn lực lượng chỉ đạo ở hai huyện phía Nam. Tại đây các đoàn thể yêu
nước phát triển mạnh, mỗi ngày có hàng ngàn người xin gia nhập các đoàn thể cứu
quốc. Ngược lại phong trào oqr miền Bắc Quảng Bình yếu hơn trước. Nguyên nhân
chủ yếu là do thực dân Pháp tập trung khủng bố, càn quét miền Bắc nhằm làm suy
yếu mặt trận phía Bắc của tỉnh, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam, thực hiện âm
mưu cắt đức mối quan hệ giữa vùng tạm chiếm với vùng tự do. Lúc này lực lượng
kháng chiến của ta đã chuyển hướng về phía Nam của tỉnh vì vậy phong trào kháng
chiến lại phát triển không đều.
Qua nhận định tình hình đồng thời để kịp thời đối phó với mhững âm mưu mới của
địch, phát huy những thắng lợi trong tuần lễ “ Tích cực cầm cự chuẩn bị tổng
phản công” đưa phong trào kháng chiến lên đồng đều trong toàn tỉnh, Tỉnh ủy
Quảng Bình tiếp tục phát động đợt thi đua mới “ 20 ngày đánh mạnh”, mặt trận chính
là huyện Quảng Trạch.
Hưởng ứng đợt phát động thi đua của tỉnh, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy,
Chi bộ Đảng đã có chủ trương đưa cán bộ chỉ huy, đảng viên cơ quan Huyện đội bộ
về các địa phương quán triệt và hướng dẫn xã đội triễn khai phát động đợt thi
đua trong lực lượng dân quân du kích phối hợp với bộ đội và nhân dân nổi dậy;
đối với đại đội 363 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ “ Đại đội độc lập”
chủ động đánh địch và hổ trợ lực lượng dân quân du kích chiến đấu bảo vệ làng.
Để đảm bảo giành thắng lợi trong “ 20 ngày đánh mạnh” ở Bố Trạch, liên tục
trong tháng 7 Tỉnh đội Quảng Bình đã điều đại đội 56…thuộc tiểu đoàn 436…vào
hoạt động ở Quảng Ninh. Tại huyện Bố Trạch chỉ có đại đội 40 của tiểu đoàn 436…tháng
8, tỉnh đội điều đại đội 88 về hoạt động ở Tây Trạch và đại đội 40 ra hoạt động
ở Bắc Trạch. Với sự tăng cường lực lượng của Tỉnh đội và sự chỉ đạo kịp thời
của Huyện ủy, Huyện đội bộ phong trào “ đánh mạnh” phát triển rộng khắp trong
toàn huyện Bố Trạch. Ngày 30-7-1949, đại đội 7 tiểu, đoàn 274 phục kích địch ở
Hưng Buổi phá tan cuộc cán quét của địch vào Khe Gát. Ngày 2-8-1949, du kích
Tây Trạch phối hợp với bộ đội chặn đánh 01 trung đội địch đi càn, diệt 3 tên
địch, bắn bị thương 8 tên; ngày 12-8, đại đội 88 thuộc tiểu đoàn 436..phục
kích địch ở Hòa Duyệt diệt…tên, thu 4 súng. Cũng trong thời gian này du kích
các xã Phúc Trạch, Sơn Trạch tổ chức đánh địch ở Tróoc, Khe Ngang, Hà Lời. Cuối
tháng 8-1949, tại thôn Võ Thuận du kích Tây Trạch đánh địch đi càn bắt sống 13
tên, thu 9 súng. Du kích Cao Lao dùng rựa chém tên lính pháp ngay giữa chợ đông
người. Hoảng sợ trước trước sự phát triển của phong trào du kích chiến tranh
bọn địch ở đồn Cao Lao, Chánh Hòa viết thư xin du kích đừng đánh vào đồn, bọn
lính ở Thanh khê, tối đến bỏ đồn xuống ngủ dưới tàu, bọn địch ở đồn Lý Hòa viết
thư xin du kích có đánh thí đánh vào bọ lính Pháp.
Cùng với việc đẩy mạnh đánh địch đi càn quét, tuần tiểu..công tác phá tề trừ
gian cũng được đẩy mạnh.Các đội “ công tác đặc biệt” của Ban công an huyện và “
Tổ công tác đặc biệt” của Huyện đội, xá đội phối hợp, hỗ trợ đắc lực cho nhân
dân các địa phương nỗi dậy diệt tề, trừ gian đã giãi tán được 151 ban hội tề.
Đội “ Công tác đặc biệt” của Huyện gồn các đồng chí Võ Trọng Cáp. Trần Sung,
Trần Liêu…phối hợp với bộ đội và du kích bí mật trừ khử và bắt 240 tên tề ngụy
gian ác có nhiều nợ máu. Đợt thi đua “ 20 ngày đánh mạnh” và phong trào phá tề
đã làm cho bọn địch ở Bố Trạch và các huyện trong tỉnh lâm vào trình trạng
hoảng loạn, lo sợ. Huyện trưởng Bố Trạch phải báo cáo lên tỉnh xin nghỉ việc.
Nguyễn Khoa Nghi tỉnh trưởng Quảng Bình phải kêu cứu lên Tổng trấn Trung phần
Nam Việt ở Huế: “ Sự hoạt động của Việt Minh ngày càng phát triển ráo riết. Ở
thôn quê, hương lý bị bắt, mộc triện bị thu, các tổng, xã mất liên lạc, không
có người làm việc hành chính ở phủ huyện”* ( Những sự kiện l/s hàng
năm-tập 1(1945-1954)phòng l/s quân sự quân khu 4, tài liệu in roneo tr 89- lưu
trử tại Ban tuyên giáo Huyện ủy Bố Trạch)
Hoạt dộng quân sự nhất là hoạt động phá tề của bộ đội và ân quân du kích đã hổ
trợ mạnh mẽ cho nhân các địa phương trong Huyện nỗi dậy đấu tranh với địch.
Hàng trăm cuộc đấu tranh chống phá mùa, chống nộp thóc, bãi thị, bao vây kinh
tế địch, không tiêu bạc Đông Dương, không mua bán hàng ngoại hóa diễn ra khắp
nơi đã gây nên nhiều khó khăn cho địch.
Phong trào nỗi dậy đấu tranh của nhân dân vùng sau lưng địch đã đánh bại một
bước âm mưu bình định “ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, lấy người Việt đánh
người Việt” của địch, giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân tại chổ, tăng
cường thêm sức mạnh cho lực lượng kháng chiến của Huyện nhà: “ Chúng ta từ chổ
bị dồn lên núi, đã kịp thời chuyển hướng về đồng bằng, chiếm lại vùng trung
châu, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta”*( B/C chính trị tại Đại
hội huyện Đảng bộ Bố Trạch lần thứ V (8-1950) tài liệu đánh máy, lưu trữ tại
Văn phòng Huyện ủy Bố Trạch).
Giữa thế trận chiến tranh nhân dân, nhiều làng, xã dân quân du kích và bộ đội
địa phương Huyện đã cùng với nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, chiến đấu anh
dũng, ngoan cường chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ quê hương, bảo vệ lực lượng
kháng chiến. Xã Tây Trạch nằm trong vùng du kích, sát huyện lỵ Hoàn Lão, là nơi
trú chân của cán bô, bộ đội, du kích về hoạt động gây dựng phong trào,
đánh địch ở Trung Trạch, Hải Trạch. Do đó, Tây Trạch trở thành mục tiêu đánh
phá quyết liệt của địch. Với âm mưu: “ Tam quang” (đốt sạch, phá sạch, giết
sạch) quân Pháp đã biến Tây Trạch thành vùng “ Đất trắng” để bảo vệ phía tây
huyện lỵ Hoàn Lão. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy và Huyện đội bộ Chi bộ
Đảng địa phương, lực lượng dân quân du kích và nhân dân đã bám trụ kiên cường,
tổ chức đánh địch trong mọi tình huống, đồng thời vận động nhân dân bám ruộng
đồng sản xuất, tăng gia đảm bảo có lương thực, thực phẩm cung cấp cho cán bộ,
bộ đội về hoạt động và chiến đấu. Trong chống càn, đánh địch dân quân du kích
và nhân dân Tây Trạch đã có sáng kiến làm nhiều kiểu nhà, lán trại hai mái cơ
động hết sức độc đáo để có nơi ăn, ở che dấu cán bộ. Thôn Hoàn Lão ( xã Trung
Trạch) nơi trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội là nơi đầu não điều
hành chiến tranh của thực dân Pháp ở Bố Trạch. Thôn Hoàn Lão tuy nằm trọn trong
vùng địch chiếm đóng, nhưng quân Pháp không lúc nào kiểm soát được tình hình.
Trong những năm đầu kháng chiến, cán bộ, dân quân du kích kiên cường bám trụ
xây dựng cơ sở, phát động nhân dân rào làng chiến đấu, tổ chức đánh địch ngay
trong lòng địch. Hoàn Lão có một đại đội du kích, có một trung đội nữ du kích
nỗi tiếng gan dạ, mưu trí, dũng cảm đánh hàng chục trận làm quân Pháp hoảng sợ.
Trong chiến đấu có hàng chục cán bộ, chiến sĩ du kích và nhân dân Hoàn Lão bị
địch bắt xử bắn, chặt đầu cắm cọc phơi khô. Nhiều cán bộ, du kích như các anh
Nguyễn Đáp, Phạm Tụ, Nguyễn Xen bị địch bắt được, sau những trận đòn roi tra
tấn thất bại, chúng buộc các an vào xe ô tô kéo lê khắp các ngã đường, hành
động giã man của quân pháp vẫn không khuất phục được tinh thần kháng chiến của
cán bộ, đảng viên, dân quân du kích và nhân dân Hoàn Lão.
Từ tuần lễ “ Quảng Bình quật khởi” đến “ 20 ngày đánh mạnh”, phong trào kháng
chiến trong toàn tỉnh có những bước phát triển khá mạnh mẽ. Tuy vậy Tỉnh ủy
nhận thấy vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, mặt yếu của các địa phương
còn gặp phải là công tác xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ địa. Để khắc phục hạn
chế nêu trên, Tỉnh ủy chủ trương phát động một đợt thi đua với khẩu hiệu: “ Xây
dựng cơ sở nhân dân, dân quân, du kích và xây dựng căn cứ địa đồng bằng”* ( Tài
liệu tổng kết chiến tranh du kích tỉnh Quảng Bình-L/s Dảng bộ tỉnh Quảng Bình
(1945-2010) tr 110). Để thực hiện được quyết tâm đó, Tỉnh ủy chủ trương đưa
đảng viên vào lực lượng du kích để trực tiếp chỉ đạo chiến đấu. Là một Huyện
ngay từ năm đầu kháng chiến, Bố Trạch đã có làng chiến đấu Cự Nẫm, Hoàn Lão và
Cao Nguyên, toàn huyện có 3 vùng kháng chiến: Vùng địch tạm chiếm, vùng du kích
và vùng tự do. Tuy rằng mỗi vùng, mỗi xã mức độ ác liệt của chiến tranh, sự kìm
kẹp, đánh phá của địch có khác nhau, nhưng từ chổ sớm xác định được nhiệm vụ
đưa cán bộ, nhân dân về “ Bám đất, bám làng” kháng chiến. Do đó, dù mức độ ác
liệt của chiến tranh ngày một nặng nề nhưng ở Bố Trạch về cơ bản cơ sở kháng
chiến luôn tồn tại, phát triển trong quần chúng nhân dân, làng chiến đấu vẫn
tồn tại, vững vàng bom đạn và sự càn quét địch, bộ đội, dân quân du kích vẫn
bám đất, bám làng chiến đấu. Điều khẳng định trong hai năm đầu kháng chiến ở Bố
Trạch ở đâu có dân ở đó có phong trào kháng chiến, có cán bộ, đảng viên, bộ đội
du kích đánh giặc: “ Bố Trạch gan góc, chiến đấu bất khuất với địch từ ngày
địch nổ súng. Đã nhiều lần Pháp phải tung các đội xung kích khủng bố, nhưng dân
chúng không nao núng… Đồng bào nhiều thôn đã nêu cao tinh thần tranh đấu. sau
các thôn có thành tích chống giặc từ trước như Cự Nẫm, Hoàn Lão, có thể ghi
thành tích tranh đấu và bất khuất của đồng bào Hỷ Duyệt, Hòa Duyệt, Phương Hạ”
* (B/C tổng kết hoạt động của địch từ 1-1 đến 15-11-1949-L/S Đảng bộ huyện
Bố Trạch-tập 1(1930-1954) tr1..1) Các chủ trương kịp thời của Tỉnh ủy không chỉ
định hướng cho cấp ủy Huyện trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến mà còn
là cơ sở để Chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ tập trung làm tốt công tác xây
dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang huyện nhà đáp ứng tốt nhiệm vụ kháng
chiến đề ra. Nét nỗi bật trong công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang
Huyện là các tổ chức Đảng dù ở cơ quan Huyện đội bộ đến đại đội 363 luôn chú
trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng khơi dậy lòng yêu nước, yêu
quê hương, làm rõ mối thù giai cấp, dân tộc, tội ác của thực dân Pháp và bọn
tay sai bán nước, hướng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ một quyết tâm cao trong chiến
đấu với mục tiêu đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, giãi phóng
quê hương, đất nước. Chính điều đó củng cố thêm niền tin, cán bộ chiến sĩ trong
lực lượng vũ trang huyện không ngừng tu dưỡng rèn luyện trong công tác và chiến
đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ được kết nạp vào Đảng và được đề bạt cán bộ lãnh
đạo. Mặt khác thông qua việc đưa “chi bộ tự động công tác” và đưa đảng viên vào
lực lượng du kích, tham gia xây dựng cơ sở nhân dân đã tạo điều kiện cho cán
bộ, đảng viên đi sâu, đi sát địa bàn cùng ăn, cùng ở hướng dẫn du kích thực
hiện công tác dân vận xây dựng cơ sở trong nhân dân và tổ chức lực lượng chiến
đấu đánh địch. Chi bộ Đảng Huyện đội bộ trãi qua chiến tranh đã từng bước
trưởng thành từ chổ thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, lãnh đạo công tác quân sự
trong cơ quan Huyện đội bộ và trong đại đội bộ đội địa phương huyện đến lúc này
đã vươn lên trở thanh một tổ chức Đảng trong toàn lực lượng vũ trang địa phương
đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo cơ quan tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban kháng
chiến hành chính huyện về công tác quân sự chung, đồng thời chịu trách nhiệm
trước cấp ủy, chính quyền huyện và xã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức lực
lượng vũ trang huyện thực hiện thắng lợi nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy Đảng và
chính quyền đề ra cho công cuộc kháng chiến trên địa bàn huyện. Đây cũng chính
là tiền đề, cơ sở hết sức quan trọng để Đảng bộ huyện từng bước củng cố,
tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối về mọi mặt
đối với lực lượng vũ trang địa phương. Lực lương vũ trang Huyện trưởng thành
nhanh chóng. Cuối năm 1949, huyện có một đại đội bộ đội địa phương với 03 trung
đội bộ binh, 01 trung đội làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, mỗi xã có từ 01 đến 02
đại đội du kích, mỗi làng có 01 đến 02 trung đội du kích. Chính thực hiện tốt
công tác xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương đã đưa lực
lượng vũ trang trở thành lực lượng nồng cốt, quyết định mọi thắng lợi của
công cuộc kháng chiến trên địa bàn Huyện.
Tháng 10-1949, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương mở chiến dịch Lê
Lợi nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch ở các tỉnh đồng bằng
Bắc bộ, khai thông liên lạc giữa chiến khu Việt Bắc với Khu 10, liên khu 3 và
khu 4. Phối hợp với chiến trường chính, tháng 12-1949, Liên khu ủy và Bộ
tư lệnh liên khu IV quyết định mở chiến dịch Lê Lai ở Bình-Trị-Thiên nhằm tiêu
diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa ở đồng bằng. Hướng chính của
chiến dịch là các huyện Nam Quảng Bình đến Bắc Quảng Trị.
Bước vào thu đông năm 1949, Tỉnh Ủy Quảng Bình phát động đợt thi đua với nội
dung: Xây dựng căn cứ địa đồng bằng, bao vây đồn địch, đẩy mạnh địch vận, giãi
quyết vấn đề lương thực cho bộ đội và vũ khí cho dân quân. Chiến dịch Lê Lai mở
ra, đây là một thời cơ tốt để động viên quân và dân tỉnh nhà ra sức chiến đấu,
tiếp tục đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương lên một giai đoạn mới.
Để hổ trợ cho các huyện giàng thắng lợi trong chiến dịch Lê Lai, Bộ tư
lệnh liên khu ủy đã chỉ thị cho tiểu đoàn 436 tăng cường đẩy mạnh các hoạt động
quân sự và phối hợp với bộ đội đại đội 363 địa phương huyện, du kích các
xã mở nhiều trận đánh nhằm lôi kéo, thu hút quân địch tạo điều kiện cho chiến trường
chính Nam Quảng Bình và tiếp sau là chiến trường Bắc Quảng Bình thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chiến đấu đặt ra. Ngày 13-12-1949, du kích thôn Đại Nam ( Trung
Trạch) phối hợp với bộ đội tiểu đoàn 274 đánh địch đi lùng, bắt sống 50 tên.
Trước đó tiểu đoàn 346 của trung đoàn 57 và du kích thôn Đại Nam chặn đánh bọn
địch đi càn, tiêu diệt 01 tiểu đội, bắt sống 11 tên.
Bước sang năm 1950, ngay đêm 1 rạng ngày 2-1-1950, một đại đội thuộc tiểu đoàn
436, một trung đội thuộc đại đội 363 và du kích xã Hải Trạch đánh đồn cầu Lý
Hòa bằng địch vận, do bị nhân mối làm phản, ta phải rút lui. Do bị lộ, địch tổ
chức phục kích tại Ba Trại chặn đường về hậu cứ của ta. Đồng chí Nguyễn Mạnh
Tâm, huyện đội trưởng bị địch bắt được đem đi thủ tiêu. Cùng trên đường rút
lui, nhóm đi sau có đồng chí Phan Khắc Hy, tỉnh đội trưởng, đồng chí Trần Ngọc
Hường, đại đội trưởng Đại đội 7 và một liên lạc bị địch đuổi bắt, đồng chí Hy
chạy thoát, hai đồng chí Hường và đồng chí liên lạc bị bắt đưa về đồn Thọ
Lộc. Ngày 13-1-1950, du kích Sơn Trạch tấn công triệt hạ đồn Phú Kinh.
Ngày 28-2-1950, du kích Bắc Trạch tấn công đồn Cao Lao; cũng thời gian này du
kích Hoàn Lão ( Trung Trạch), Hoàn Phúc ( Hải Trạch) mở nhiều đợt phục kích,
tập kích vào bọn địch đi tuần gây cho địch nhiều hoang mang về tâm lý và gây
cho chúng nhiều thiệt hại về người. Trước những thất bại liên tiếp, quân Pháp ở
Bố Trạch buộc phải thu hẹp phạm vi kiểm soát, rút một số đồn lẻ xa nguồn tiếp
tế về đóng chốt trên các điểm xung yếu dọc các đường giao thông, chúng rút đồn
Troóc (8-2-1950), Cao Lao (24-4-1950), Khương Hà (4-1950) về tăng cường cho các
đồn trọng yếu ở Thanh Khê ( 300 tên), Lý Hòa (200 tên), Hoàn Lão (100 tên).
Chúng cho xây dựng một loạt các tháp canh, đồn bốt mới từ Thọ Lộc về Hoàn Lão,
từ Thanh khê vào sân bay Đồng Hới, chia cắt Bố Trạch thành những ô bàn cờ.
Chúng tăng cường dồn quân, bắt lính, chọn những thanh niên theo đạo thiên chúa
làm nồng cốt thành lập các đội ứng chiến cơ động đánh phá trên địa bàn toàn
Huyện. Chúng tập trung lực lượng càn quét trên quy mô lớn, vào vùng tạm bị
chiếm, vùng du kích, thường xuyên cho ca nô tuần tiểu bắn phá vào các làng dọc
hai bên bờ sông Gianh, sông Son, chặn đánh kiểm soát các tuyến đường giao thông
nhằm triệt nguồn tiếp tế của ta.
Sau chiến dịch Lê Lai, ngày 14-4-1950, Bộ chỉ huy mặt trận Bình-Trị-Thiên quyết
định mở chiến dịch Phan Đình Phùng để “ Phát triển chiến tranh du kích đến cực
độ, đẩy vận động chiến lên đơn vị chủ yếu”*(Nghị quyết Liên khu 4 về
Bình-Tri-Thiên, ngày 30-2-1950, tài liệu đã dẫn).
Để đáp ứng nhiệm vụ tiêu diệt nhiều sinh lực và phá tan các âm mưu của địch, hổ
trợ các hoạt động của bộ đội, du kích trong chiến dịch Phan Đình Phùng. Sáng
ngày 19-5-1950, tại Động Lỡ phía Tây thị xã Đồng Hới, tiểu đoàn 229 bộ đội chủ
lực tỉnh được thành lập. Tiểu đoàn được giao nhiệm vụ về hoạt động trên địa bàn
xã Tây Trạch: Bảo vệ vùng căn cứ du kích, không cho địch lấn chiếm, bảo vệ an
toàn hành lang tuyến giao thông Bắc-Nam, đoạn đường đi qua miến Tây huyện Bố
Trạch.
Ngày 17-6-1950, chiến dịch Phan Đình Phùng mở màn. Phối hợp với chiến dịch,
quân và dân các địa phương Bố Trạch đồng loạt mở hàng các cuộc tấn công vào các
hệ thống phòng ngự của địch. Đầu tháng 6-1950, du kích Cự Nẫm phối hợp với bộ
đội 363 tập kích đồn Cự Nẫm, tiêu diệt một số sinh lực địch, đốt cháy toàn bộ
hệ thống hàng rào bảo vệ kho gạo. Cũng thời gian này du kích Thanh Khê cùng bộ
đội tiểu đoàn 436, tập kích đồn Thanh Khê, đốt cháy một kho xăng. Bộ đội 363 và
du kích Sơn Trạch chặn đánh bọn địch đi càn tiêu diệt hàng chục tên lính, thu
lại hàng chục con trâu, bò và nhiều tài sản của nhân dân. Du kích Bắc Trạch,
Hải Trạch, Trung Trạch liên tiếp đánh phá giao thông trên quốc lộ 1A, đường
tỉnh lộ 2, gây cho địch nhiều thiệt hại, làm gián đoạn các hoạt động chuyển
quân, vận tải hàng hóa của địch. Cũng với việc đẩy mạnh các hoạt động quân sự,
phong trào đấu tranh của nhân dân các xã Tây Trạch, Vạn Lộc, Hoàn Phúc, Hoàn
Lão, Lý Hòa, Hỷ Duyệt, Thanh Khê, Ba Đề, Cao Lao…chống bắt phu, bắt lính, chống
cướp tre rào đồn bốt, phá mùa, lập lại hội tề thu được nhiều thắng lợi. Du kích
Hải Trạch, Bắc Trạch phục kích bắt bọn tề ở Vạn Lộc, Thanh Khê. Thông qua công
tác điệp báo, công an Bố Trạch đã phát hiện 7 vụ gián điệp nguy hiểm do cơ quan
SF và phòng nhì Pháp tung ra hoạt động ở vùng chiến khu của ta. Công tác diệt
tề, trừ gian được duy trì thường xuyên, đã làm cho bọn địch hoang mang, lo sợ.
Tuy vậy, do công tác phòng chống nội gián của ta còn lỏng lẻo, có nhiều sơ hở,
ý thức cảnh giác cách mạng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân chưa cao, công tác
quản lý cán bộ, chiến sĩ nhất là những người hoạt động trong vùng địch kiểm
soát thiếu chặt chẽ. Do đó dẫn đến trình trạng một số đã phản bội, dẫn địch về
bắt, giết đồng chí Nguyễn Quốc phó chủ tịch xã Nam Trạch, tên Lừ một tên việt
gian gian ác, chỉ điểm lợi hại đã dẫn địch về lùng bắt cán bộ ta ở thôn Lý Nhân
Nam ( Nam Trạch).
Trên mặt trận giao thông vận tải, với tinh thần “tất cả cho kháng chiến”, vì
Trị - Thiên ruột thịt, đồng bào các dân tộc ít người ở xã Thượng Trạch và dân
công các xã Phúc Trạch, Sơn Trạch đã không quản gian lao, vất vã đã vượt qua
biết bao núi cao lèn đá tai mèo, suối sâu vùng núi Khe Gát, Troóc, Ba Rền, U Bò
vận chuyển hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, đạn dược, thuốc chữa bệnh từ
Nghệ-Tỉnh vào chiến trường Bình-Trị-Thiên. Trên tuyến đường
biển,các đội thuyền của ngư dân Lý Hòa, Lý Nhân Nam đã vượt qua sự kiểm soát
của hải quân địch, len lỏi giữa các con sóng, chuyển hàng trăm tấn hàng từ binh
trạm 11 ở Roòn vào Quảng Trị, Thừa Thiên…Giữa năm 1949, chiếc ghe Bầu của ông
Hoàng Lâm ở Lý Hòa trên đường chở hàng cho địch từ Đà Nẵng ra Quảng Bình với
tinh thần yêu nước thuyền trưởng và thủy thủ đoàn đã phối hợp giết chết và bắt
sống hai tên lính Pháp đi áp tải hàng và đưa hơn 69 tấn hàng vào giao cho Ủy
ban kháng chiến hành chính xã Quảng Ngang, tỉnh Thừa Thiên.
Trong hai năm 1948-1949, có hơn 600 tấn hàng được chuyển qua Bố Trạch đưa vào
Quảng Trị và Thừa Thiên, khu V, khu VII. Việc vận chuyển lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh từ vùng tạm bị chiếm ra vùng du kích, vùng tự do cũng được tổ
chức chu đáo. Các tổ vận tải của phụ nữ Lý Hòa, Lý Nhân Nam, bằng đôi quang
gánh trên vai, thông qua việc “ buôn làng sang chợ” đã đưa được hàng chục tấn
hàng ra vùng tự do, góp phần giãi quyết những khó khăn trong đời sống chiến đấu
của quân và dân ta ở trong vùng tự do. Trong cuộc vận động “ Mùa đông binh sĩ”,
các hội “ Mẹ chiến sĩ”, hội phụ nữ đã vận động quyên góp lúa gạo, đường sữa,
thuốc chữa bệnh, bạc tiền, chăn, màn, áo quần…giúp bộ đội, nuôi dưỡng thương
binh. Các mẹ, các chị đã để lại nhiều tình cảm, những ấn tượng đẹp đẽ về tình
quân dân như cá với nước trong cán bộ, bộ đội hoạt động trên địa bàn.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng đường lối “ Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, các
chi bộ Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ và đại đội 363 đã có nhiều biện pháp
triển khai công tác tăng gia sản xuất, thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần tại chổ,
đảm bảo có được một phần lương thực, thực phẩm nâng cao chất lượng bữa ăn cho
bộ đội, du kích. Chính vì vậy, mặc dù trong điều kiện phải thường xuyên cơ động
chiến đấu, cán bộ chiến sĩ từ cơ quan Huyện đội bộ đến các trung đội, tiểu đội
bộ đội, dân quân, du kích trực tiếp làm nhiệm vụ chiến đấu đều tranh thủ mọi
thời gian, tận dụng mọi khoảnh đất có được để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, các
loại rau, củ, quả… Tại các vùng du kích, vùng mới được giãi phóng, vùng tự do,
bộ đội, du kích đã vận động, hướng dẫn nông dân thành lập các tổ đổi công, vần
công..hướng dẫn ngư dân đi biển theo lối “ Đánh du kích” giặc đến ở nhà, giặc
đi bám biển sản xuất. Dân quân du kích các xã ngoài việc tuần tra, canh gác, tổ
chức chiến đấu đánh địch đã tranh thủ thời gian ra đồng sản xuất, cày cấy,
trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ dệt vãi thao, vãi đũi, làm muối, làm nước mắm, nấu
đường đọi, đường chén, rèn dao, rựa. Chính vì vậy, các ngành nghề thủ công
truyền thống trong các địa phương không vì chiến tranh mà mai một ngược lại vẫn
được duy trì, phát triển làm ra nhiều sản phẩm đáp ứng một phần lớn nhu cầu
cuộc sống của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ hoạt động, chiến đấu trên địa bàn
suốt những năm kháng chiến.
Trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, giáo dục, y tế cán bộ, chiến sĩ cơ quan
Huyện đội, đại đội 363, dân quân du kích các xã đã nêu cao tấm gương đi đầu
trong việc tổ chức dạy chữ, xây dựng đơn vị ăn, ở, sinh hoạt gọn gàng, sạch,
đẹp; mà còn đi đầu trong việc vận động nhân dân thực hiện cuộc sống mới, tham
gia tích cực phong trào “ Bình dân học vụ”, phong trào văn hóa văn nghệ, làm vệ
sinh thôn xóm..
Từ ngày kháng chiến bùng nổ, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, quân và dân Bố
Trạch đã thực hiện tốt chủ trương “ Bám đất, bám làng” chiến đấu. Chính điều đó
đưa đến công cuộc kháng chiến ở Bố Trạch có đà phát triển mạnh mẽ về chiều rộng
lẫn chiều sâu trong cả ba vùng địch hậu, du kích và tự do. Trãi qua chiến đấu
lực lượng vũ trang huyện ngày càng phát triển mạnh cả về lực lượng và sức mạnh
chiến đấu. Năm 1947, toàn huyện có 1.780 người tham gia dân quân du kích đến
năm 1950 phát triển lên đến 56.204 người. Từ 10 tung đội du kích tập trung năm
1947 đã tiến lên xây dựng được một đại đội bộ đội đia phương làm nồng cốt cho
toàn dân đánh giặc, giữ làng.*( L/S Đảng bộ huyện Bố Trạch-tập1-1930-1954
–sơ thảo-tháng 11-1945, tr169) Trình độ chiến đấu của bộ đội, du kích ngày một
năng cao, hiệu suất chiến đấu ngày một lớn. Trong chiến đấu, từ chổ chỉ sử dụng
lối đánh du kích nhỏ lẻ, đánh vào bọn địch đi tuần canh, đi càn tiến tới phối
hợp với bộ đội địa phương tỉnh, chủ lực quân khu đánh tậ kích, vận dộng chiến
tiêu diệt tiêu hao từng bộ phận lớn sinh lực địch, gây cho chúng nhiều hoang
mang, lo sợ buộc chúng phải rút về co cụm. Chính từ trong thực tiển chiến
đấu đưa đến công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang huyện có những bước
phát triển quan trọng cả về chính trị tư tưởng và tổ chức. Trong lãnh đạo chỉ
đạo, cấp ủy cũng như tập thể chi bộ Đảng đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo trực
tiếp, toàn diện đối với đối với công tác Đảng, công tác chính trị, làm tốt công
tác giáo dục, bồi dưỡng ý thức hệ về giai cấp công nhân, sự nhận biết về cuộc
đấu tranh giãi phóng dân tộc, giãi phóng giai cấp, nhiệm vụ của người cán bộ
đảng viên và người lính cách mạng. Đồng thời tập trung thực hiện nhiệm vụ xây
dựng, phát triển lực lượng, nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tác chiến, điều động lực
lượng, triển khai tổ chức chiến đấu..Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cấp
ủy, chi bộ cùng các Ban chỉ huy Huyện đội bộ và đại đội 363 đã có sự phối hợp
chặt chẻ trong các nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ đội, dân quân du
kích, trong việc xây dựng kế hoạch tác chiến..Đối với đảng viên đã xác định
được nhiệm vụ, trách nhiệm vì vậy trong công tác, trong chiến đấu luông gương
mẫu đi đầu dẫu biết rằng trước mắt có rất nhiều khó khăn, gian khổ thậm chí cả
hy sinh tính mạng. Là những cán bộ, đảng viên, chí sĩ trong lực lượng vũ trang
Huyện càng trãi qua thử thách trong chiến trang, càng được tôi luyện và trưởng
thành. Chính vì vậy, tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang huyện không chỉ thể
hiện được vai trò lãnh đạo công tác Đảng mà còn là chổ dựa vững chắc, là nơi
tạo nguồn sức mạnh đoàn kết, sức mạnh chiến đấu trong mỗi cán bộ đảng viên,
chiến sĩ và nhân dân để từ đó làm nên những chiến công vang dội trong các trận
đánh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển ngày càng mạnh, đòi hỏi Đảng ta
phải có chiến lược hoạt động thích hợp nhằm tranh thủ, tập hợp được mọi lực
lượng và sự ủng hộ của nhân dân trong nước và thế giới. Ngày 14-9-1949, Ban
thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị tạm ngừng kết nạp đảng viên mới và tuyên
bố giãi tán Đảng nhưng trong thực tế Đảng ta rút vào hoạt động bí mật.
Bố trạch là chiến trường ác liệt của Quảng Bình, là nơi địch tập trung lực
lượng đánh phá mạnh, gây nhiều tổn thất lớn cho kháng chiến. Chỉ riêng năm
1949, toàn Đảng bộ có 1.132 đảng viên thì có 53 đồng chí hy sinh, 239
đảng viên bị bắt*( L/S Đảng bộ huyện Bố Trạch sdd - toàn tỉnh
Quảng Bình ( trừ huyện Bố Trạch) chỉ có 57 đảng viên hy sinh, 63 đồng chí bị
bắt). Sự ác liệt của chiến tranh không làm nản lung lay tinh thần yêu
nước, lòng quyết tâm của cán bộ đảng viên trong lực lượng vũ trang Huyện mà
ngược lại càng nung nấu cao độ ý chí và lòng căm thù quân xâm lược để từ đó
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ “ Bám dân, bám làng” chiến đấu.
Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong tình hình mới của kháng
chiến. Tháng 8-1950, Đại hội đại biểu lần thứ III huyện Đảng bộ được triệu tập.
Đại hội đã đề ra 5 nhiệm vụ: Tiếp tục tổng động viên. Đẩy mạnh du kích
chiến tiêu hao địch, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân và đồng thời đẩy
mạnh vận động chiến. Xúc tiến công tác địch vận. Cương quyết phá chiến thuật “
chốt then cửa” chặn đường liên lạc của ta. Xây dựng Đảng theo tinh thần Mác -
xít-Lenin- nít để làm mấu chốt đẩy mạnh mọi hoạt động hoàn thành nhiệm vụ chuẩn
bị chuyển sang “Tổng phản công”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ, cùng với các tổ chức Đảng địa
phương, Chi ủy chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ và đại đội 363 đã có nhiều biện
pháp tổ chức phổ biến, học tập trong toàn lực lượng nhằm thấu suốt các nhiệm vụ
quân sự, tổ chức tốt việc phát triển lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động chiến
đấu đánh địch bảo vệ dân và sẵn sàng chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Thực
hiện sự chỉ đạo của Huyện, Ban chỉ huy Huyện đội bộ đã xây dựng kế hoạch và chỉ
đạo các xã đội phân tán nhỏ các đội du kích tập trung đi về các thôn xóm, tổ
chức huấn luyện và chiến đấu tại chổ, là chổ dựa cho nhân dân đấu tranh với địch.
Đưa đại đội 363 của huyện làm nhiệm vụ “ Đại đội độc lập” và phối hợp với du
kích các xã đánh địch thay cho các đại đội 1, đại đội 7, đại đội 40 và đại đội
90 Liên khu và của tỉnh rút về căn cứ bổ sung và củng cố lực lượng chuẩn bị cho
nhiệm vụ mới.
Ngày 25-10-1950, Quảng Bình bị một trận lụt lớn chưa từng có trong vòng 80 năm
qua, nhiều nơi ở Bố Trạch nước dâng cao tơi 15 đến 20 thước, mùa tháng 10 mất
đến 80%, hơn 200 ngôi nhà bị hư hỏng nặng và bị nước lũ cuốn trôi,, hàng chục
tấn lương thực, thực phẩm bị ngập nước hư hỏng nặng, trên 100 con trâu bò bị
chết…lợi dụng cơ hội đó, địch tăng cường đánh phá. “Thiên tai, địch họa” cùng
lúc ập đến, chưa bao giờ quân và dân Bố Trạch lại đứng trước những thử thách
nghiêm trọng như vậy cùng một vừa phải đánh địch bảo vệ dân, vừa phải tập trung
giãi quyết hậu quả lũ lụt, chóng đói.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Huyện và chỉ
thị của Tỉnh đội về triển khai nhiệm vụ đẩy mạnh các biện pháp tăng gia xản
xuất kịp thời cứu đói. Tại các nơi đóng quân, cán bộ chiến sĩ trong cơ quan
huyện đội bộ, đại đội 363 đến dân quân du kích các xã đã phân công công tác
luân phiên nhau sản xuất và chiến đấu đảm bảo thường xuyên có người ở lại cứ
tăng gia
sản xuất. Bộ đội
trong các khu căn cứ Bồng Lai, Phú Định, Trooc tranh thủ ngày đêm cùng nhân dân
khai hoang, phục hóa đất dai trồng khoai, sắn, ngô, các loại rau, củ quả nhằm
kịp thời giải quyết lương thực, thực phẩm tại chổ và cung cấp cho cán bộ, chiến
sĩ và nhân dân nơi khó khăn. Mặt khác các đơn vị đã điều động cán bộ, chiến sĩ,
dân quân du kích cùng nhân dân vận tải chuyên chở hơn 4.500 tấn gạo, 1000 con
trâu bò từ Thanh-Nghệ-Tỉnh vào giúp đở nhân dân ba tỉnh Bình-Trị-Thiên. Chính
nhờ vào tinh thần “ tự lực, tự cường” và sự giúp đở kịp thời của Trung ương và
nhân dân các tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh mà quân và dân Bố Trạch đã sớm khắc phục hậu
quả lũ lụt, vượt qua nạn đói, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc kháng chiến tiến lên.
Trãi qua gần 3 năm kháng chiến với việc thực hiện nghiêm túc chủ trương “ Bám
dân, bám làng” chiến đấu, phong trào “ Kháng chiến, kiến quốc ở Bố Trạch có
bước phát triển nhanh, mạnh và vững chắc đưa đến giành được nhiều thắng lợi
lớn. Cùng với sự phát triển chung của cả Huyện, công tác xây dựng Đảng, xây
dựng lực lượng trong lực lượng vũ trang huyện có những bước phát triển mạnh mẽ,
tòan diện. Thắng lợi lớn nhất của công tác xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính
trị tư tưởng và tổ chức trong lực lượng vũ trang Huyện đó là đã xây dựng
được một hệ thống tổ chức Đảng từ cơ quan chỉ huy cao nhất là Huyện đội bộ đến
đơn vị trực tiếp chiến đấu, đảm bảo được sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất từ
trên xuống dưới. Đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ
đảng viên, tạo nên một sự đoàn kết, thống nhất cao trong suy nghĩ và hành động,
đảm bảo bộ đội, dân quân du kích không quản ngại gian khổ, hy sinh dám xả thân
chiến đấu vì nền độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đó là đã quán triệt
sâu sắc đường lối kháng chiến “ Toàn dân, toàn diện, lâu dài” và đường lối đánh
giặc “ Du kích chiến tranh” tiến lên “ Vận động chiến” khi điều kiện cho phép.
Chính điều đó mà công tác Đảng, công tác chỉ huy có những nhạy bén trong nắm
bắt tình hình, trong xác định nhiệm vụ, trong điều động lực lượng “Tự động công
tác” cũng như phối hợp, hiệp đồng tác chiến nên đưa đến hiệu suất chiến đấu
lớn, đánh thắng nhiều trận, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.
Qua gần ba năm kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy mà trực tiếp là Chi
ủy, chi bộ Đảng quân sự huyện, lực lượng vũ trang huyện Bố trạch thực sự trưởng
thành nhanh chóng. Trong chiến tranh công tác Đảng, công tác chính trị trong
lực lượng vũ trang Huyện đã đúc rút và để lại nhiều kinh nghiệm quý giá, là
tiền đề để đẩy mạnh công tác Đảng trong những năm tiếp theo nhằm tiếp tục lãnh
đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang huyện đẩy mạnh công cuộc kháng chiến đi đến
thắng lợi cuối
cùng.
CHƯƠNG III
LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG PHÁT TRIỂN THẾ TRẬN TIẾN CÔNG, ĐÁNH BẠI ÂM MƯU BÌNH
ĐỊNH VÀ PHẢN CÔNG CỦA ĐỊCH; PHỐI HỢP VỚI CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TOÀN TỈNH CHỦ
ĐỘNG TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIÃI PHÓNG QUÊ HƯƠNG ( 11/1950 – 8/1954 )
I* CỦNG CỐ NÂNG CAO SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG;
LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÙNG BỘ ĐỘI CHỦ LỰC ĐÁNH BẠI ÂM MƯU BÌNH ĐỊNH VÀ
PHẢN CÔNG CỦA ĐỊCH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN.
Sau những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên khắp các chiến trường trong
năm 1949 và đầu năm 1950, đặc biệt là chiến thắng Biên Giới tháng 10-1950, cục
diện chiến trường nhất là chiến trường chính Bắc Bộ chuyển mạnh sang chiều
hướng có lợi cho ta, không có lợi cho địch. Cuộc chiến tranh mà thực dân Pháp
tiến hành ở Đông Dương đang đẩy Pháp vào thế bị động lúng túng, tâm lý thất bại
xuất hiện trong binh lính và trong giới quân sự cầm quyền Pháp. Quân và dân ta
trên đà thắng lợi có nhiều thuận lợi mới để chuyển từ “ Du kích chiến” sang “
Vận động chiến”, phản công địch giành thắng lợi ngày càng to lớn.
Trước những thất bại nặng nề trên chiến trường, hòng cứu vãn tình hình, chính
phủ Pháp hy vọng dựa vào sức mạnh của Mỹ để đảo ngược tình thế. Nhằm củng cố
niềm tin cho binh lính trên chiến trường và tạo tin tưởng với quan thầy và sớm
tranh thủ sự viện trợ của Mỹ, chính phủ Pháp đã điều động Đờ Tát-Xi-Nhi tư lệnh
lục quân khối quân sự Tây Âu sang làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm
chức Cao ủy Pháp ở Đông Dương.
Ngay sau khi đặt chân lên Đông Dương, đầu năm 1950, Đờ Tát-xi-Nhi điên cuồng
thực hiện một loạt các cuộc hành quân càn quét lớn khắp trên các chiến trường
với mục tiêu: triệt hạ làng mạc, bắn giết dân thường, vơ vét của cải, thóc gạo,
trâu, bò nhằm uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Những hoạt động
quân sự trên với mục đích thực hiện các âm mưu: Gấp rút tập trung binh lực xây
dựng lực lượng cơ động chiến lược và ra sức phát triển quân ngụy; xây dựng
tuyến phòng thủ cắt ngang đồng bằng Bắc Bộ; tập trung lực lượng bình định
vùng chiếm đóng; phá hoại các vùng tự do của ta và chuẩn bị mở các cuộc tấn
công lớn ra vùng tự do để tiêu diệt các lực lương Kháng chiến, hòng gây thanh
thế, lấy lại tinh thần cho binh lính và làm niềm tin để xin viện trợ của Mỹ.
Giữa lúc địch đẩy mạnh các hoạt động quân sự trên thì ở Quảng Bình nhân dân ta
vừa trải qua một lũ lụt lớn chưa từng có trong lịch sử, gây nên những hậu quả
thiên tai nặng nề. Do ảnh hưởng của trận lụt, phong trào chiến tranh du kích ở
tỉnh ta gặp vô vàn khó khăn. Nạn đói, bệnh tật đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống,
sinh hoạt của nhân dân và cán bộ chiến sĩ ta. Tại các vùng bị lũ lụt hoàn hành,
tàn phá, nhân dân có phần ít quan tâm, chăm lo đến các hoạt động kháng chiến mà
lo tập trung mọi nổ lực cho việc khắc phục hậu quả thiên tai đã gây không ít
khó khăn đối với cán bộ, chiến sĩ ta mỗi khi về bám cơ sở hoạt động.
Lợi dụng lúc phong trào kháng chiến của ta gặp khó khăn, quân Pháp ở Quảng Bình
đã tập trung lực lượng lên đến 4000 quân ngụy và Âu Phi, chúng phân chia thành
3 khu vực đóng quân. Khu vực Bắc gồm Bố Trạch, Quảng Trạch; khu Nam gồm Quảng
Ninh, Lệ Thủy; khu vực Đồng Hới gồm thị xã Đồng Hới và phụ cận. Tại các vùng
tạm bị chiếm, lợi dụng ta đang gặp khó khăn do lũ lụt gây ra, quân Pháp tăng
cường các hoạt động càn quét, đánh phá cơ sở kháng chiến, lùng bắt cán bộ,
chiến sĩ ta, ép buộc nhân dân dồn làng. Đồng thời tổ chức lực lượng đánh ra
vùng du kích chiếm đất,chiếm dân mở rộng vùng chiếm đóng. Mặt khác chúng tập
trung đánh phá mạnh vào kinh tế, cho quân đi phá lúa, bắn giết trâu, bò, bắn
vào người sản xuất trên đồng, tăng cường các cuộc càn quét, khủng bố các vùng
bị chiến đóng, củng cố các hội tề.Chúng còn tăng cường lực lượng quân sự, củng
cố hệ thống đồn bốt và kiểm soát các tuyến đường giao thông quan trọng và tìm
mọi phương sách tăng cường sự kiểm soát, khống chế, o ép, khủng bố mọi hoạt
động đi lại làm ăn, sinh hoạt của nhân dân ta và đẩy mạnh việc bình định đối
với cá làng xóm chúng đang kiểm soát.
Tại Bố Trạch để thực hiện âm mưu bình định gấp rút vùng chúng kiểm soát, thực
dân Pháp đã điều tiểu đoàn 23 ở Thừa Thiên ra Bố Trạch thay tiểu đoàn 12 làm
nhiệm vụ cơ động trên chiến trường và phối hợp với đoàn Việt binh đoàn và tiểu
đoàn Nguyễn Huệ đóng ở thị xã Đồng Hới càn quét, đánh phá phông trào kháng
chiến ở Bố Trạch. Chúng còn đưa bọn vệ binh, cảnh vệ ra đóng giữ các đồn lẻ
thay cho bọn Việt binh đoàn làm nhiệm vụ cơ động ứng chiến; tập trung củng cố
lại hệ thống đồn bốt trên các tuyến đường giao thông quan trọng từ Thanh Khê
vào Chánh Hòa và từ Thọ Lộc về Hoàn Lão. Chúng tung gián điệp vào vùng ta kiểm
soát, lập các trạm gián điệp ở Gia Hưng, xóm An Giang thuộc làng Phú Hữu để thu
thập tin tức và mua chuộc cán bộ, nhân dân ta làm nội gián cho chúng. Mặt khác,
tại những vùng tạm bị chiếm, chúng lập lại các hội tề những nơi đã bị du kích
ta triệt phá; tiến hành việc đôn quân bắt lính và tăng cường cấu kết với bọn
phản động trong các vùng Thiên chúa giáo để chống phá kháng chiến.
Thủ đoạn bình định của địch chủ yếu mở các cuộc càn quét lớn, càn quét vừa và
nhỏ dài ngày kết hợp với càn đi quét lại nhiều lần. xã nào có phong trào kháng
chiến mạnh thí chúng tập trung quân đánh phá dữ dội, những nơi có phong trào
yếu thì vừa đánh vừa dỡ các thủ đoạn chính trị. Chúng đặt các làng xã trong
toàn Huyện luôn ở trong trạng thái bị chúng tấn công, đánh phá. ở các xã Tây
Trạch, Hải Trạch, Nam Trạch, Trung Trạch, Bắc Trạch quân Pháp càn quét, đánh
phá hàng chục trận. Tại xã Sơn Trạch có trận càn, quân Pháp điều tới 800 quân
thủy bộ, có máy bay yểm trợ tấn công dài ngày bao vây các thôn Xuân Sơn, Cù
Lạc, Cổ Giang, Khương Hà, Gia Hưng, và Troóc. Ở Hoàn Lão, Lý Hòa quân Pháp chà
đi xát lại lùng bắt cán bộ, đảng viên, du kích làm cho cơ sở kháng chiến của ta
bị tổn thất nặng nề, trong mỗi thôn cán bộ, đảng viên chủ chốt chỉ còn lại 5-7
đồng chí. Ở xã Tây Trạch, giặc Pháp uy hiếp hàng ngày, ruộng vườn bỏ hoang làm
cho đời sống của nhân dân và cán bộ, bộ đội ta về hoạt động gặp rất nhiều khó khăn.
Mặt khác chúng dở thủ đoạn lừa bịp cho thành lập các hội “ tiếp tế” chuyển thóc
gạo tới những nơi ta gặp khó khăn trong đời sống, tổ chức phát chăn, màn, áo,
quần cho sản phụ, phát quần, áo có in dòng chử “ Mỹ quốc viện trợ” cho thanh
niên; thành lập các quán “chiêu an”, “chiêu hiền” để mua chuộc cán bộ, nhân dân
ta bỏ kháng chiến đi theo chúng. Thâm độc hơn, chúng tìm mọi cách phá hoại nền
kinh tế của ta, chúng cho xe cơ giới ra đồng nghiền nát hoa màu, dùng xăng đốt
lúa, đốt các công cụ sản xuất, phá các hồ chứa nước, cầu cống, mương máng, tung
hàng ngoại, phá giá đồng bạc Đông Dương, bắt bớ, khủng bố những người giữ và
tiêu đồng bạc Việt Nam.
Trên tuyến vận tải Liên khu IV tiếp tế cho chiến trường Bình-Trị -Thiên, lúc
này địch tập trung đánh phá ác liệt, chúng tổ chức từng toán nhỏ lẻ từ 10 đến
15 tên lính chuyên phục kích ở tuyến đường đi qua U Bò, Ba Rền, Gia Hưng làm
gây trở ngại và gây thiệt hại lớn cho các đoàn vận tải và cán bộ, chiến sĩ ta
đi qua vùng này.
Để bảo vệ các tuyến đường giao thông chiến lược Liên khu và mặt trận
Bình-Trị-Thiên. Cuối năm 1950, Tỉnh đội Quảng Bình quyết định thành lập Đại đội
300 trên cơ sở trung đội 300 của đại đội 363 bộ đội địa phương huyện Bố Trạch.
Phụ trách đại đội trưởng là đồng chí Hà sỹ Khoa, chính trị viên là đồng chí Hồ
Quang Huy. Đại đội có một chi bộ Đảng trực thuộc huyện đội bộ Bố Trạch, chi ủy
chi bộ có 5 đồng chí do đồng chí Hồ Quang Huy làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Nhiếp
phó Bí thư, hai đồng chí Vũ Liêm và lê Viết chi ủy viên. Đại đội có nhiệm vụ
bảo vệ tuyến đường giao thông liên lạc Liên khu và tuần tiểu, bảo vệ, đưa đón
cán bộ, bộ đội, dân công từ Ba Lùm, Ba Lòi vào Ba Rền, U Bò, Bến Lùi ( Quảng
Ninh).
Trước tình hình địch mở rộng chiến tranh và khắc phục hậu quả lũ lụt, trong các
ngày 5 đến 12 tháng 2-1951, Tỉnh ủy họp Hội nghị quán triệt Nghị quyết Liên khu
về phương châm đánh địch: “Đánh nhỏ ăn chắc, đánh tiêu hao, tiêu diệt địch làm
chủ chiến trường”. Trên cơ sở đó Hội nghi đề ra quyết tâm “ Xây đà chiến
thắng”, bám đất, bám dân giữ vững địa bàn, chăm lo cũng cố mọi mặt, đẩy mạnh
chiến tranh du kích, đánh bại mọi âm mưu bình định của địch đưa phong trào
Quảng Bình tiến kịp các chiến trường. Tiếp đó Tỉnh ủy đã đề ra chủ trương: các
cấp các ngành xắp sếp lại công việc, tập hợp cho được cán bộ, đảng viên chỉ đạo
việc giãi quyết nạn đói. Đồng thời nhằm làm thất bại âm mưu của địch lợi dụng
việc nhân dân ta tập trung giãi quyết hậu quả lũ lụt để đẩy mạnh các hoạt động
quân sự, kinh tế đánh phá phong trào kháng chiến.
Cũng đầu tháng 2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng khai mạc.
Đại hội vạch ra nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: Tiêu diệt
thực dân Pháp, đánh bại sự can thiệp của Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn
toàn đất nước, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Đại hội
quyết định đưa Đảng cộng sản Đông Dương ra hoạt động công khai, và tổ chức lại
cho thích hợp với tình hình ba nước trên bán đảo Đông Dương. Đối với cách mạng
Việt Nam, Đại hội quyết định lấy tên là Đảng lao động Việt Nam.
Sau những ngày tập trung lực lượng cùng nhân dân toàn huyện khắc phục hậu quả
lũ lụt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất cứu đói, đặc biệt sau Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Huyện ủy Bố Trạch; Cấp ủy,
chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ, đại đội 363 và chi bộ 300 đã tập trung triển
khai công tác chính trị tư tưởng, công tác xây dựng Đảng trong toàn lực lượng
vũ trang. Trong đó tập trung làm rõ và giãi quyết những băn khoăn, vướng mắc,
lo lắng về hậu quả bão lụt, về việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói… nhằm sớm ổn
định tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Về công tác xây dựng
Đảng, các chi bộ phải tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng. Duy trì nghiêm túc
chế độ sinh hoạt Đảng, xây dựng chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo đơn vị.
Đồng thời tổ chức tốt việc học tập chính trị, tăng cường công tác giáo dục cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ nhận thức đường lối kháng chiến do Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ II đề ra và các Nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy nhằn
nhận thức đúng đắn nhiệm vụ của lực lượng vũ trang địa phương và sẵn sàng phối
hợp với quân chủ lực trong các trận đánh lớn. Mặt khác, phải tập tung làm tốt
công tác huấn luyện quân sự, sẵn sàng chủ động tiến công địch, phát triển du
kích chiến tranh tiến tới vận động chiến đánh bại các cuộc càn quét, đánh phá
cử địch, làm thất bại âm mưu bình định gấp rút của địch. Công tác xây dựng về
tổ chức và cán bộ từ một chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ ngày đầu kháng chiến
đến lúc này tổ chức Đảng trong khối cơ quan và bộ đội địa phương có 3 chi bộ,
trong đó chi bộ Huyện đội bộ trực thuộc Huyện ủy, 2 chi bộ đại đội 363 và chi
bộ 300 trực thuộc Huyện đội bộ. Đến thời điểm này đội ngũ đảng viên trong lực
lượng bộ đội địa phương là 126 đồng chí *( Tổng hợp theo sổ theo giỏi Đảng tịch
năm 1952-1953- Hồ sơ viết tay lưu trữ tại văn phòng Huyện ủy Bố Trạch), đảng
viên trong lực lượng dân quân, du kích sinh hoạt tại các chi bộ địa phương có
tới hàng trăm đồng chí.
Để đánh bại âm mưu “ Bình định gấp rút” của địch ở Quảng bình và tạo đà ch quân
và dân Quảng Bình tiến lên “..tiêu diệt địch làm chủ chiến trường”. Bộ chỉ huy
quân khu ủy IV đã điều trung đoàn 18 và trung đoàn 95 thuộc Đại đoàn 325 đang
hoạt động ở Nam Quảng Bình ra hoạt động ở chiến trường Bắc Quảng Bình với nhiệm
vụ tiêu diệt các vị trí của địch ở Sen Bàn, Ba Đồn, Mỹ Hòa, Cửa Phủ và tổ chức
đánh quân tiếp viện cho Quảng Trạch. Đồng thời Quân khu ủy củng điều tiểu đoàn
229 từ Hà Tỉnh vào tăng cường cho chiến trường Bố Trạch
Quán triệt chủ trương của
Tỉnh ủy và quyết tâm của Liên khu ủy, được bộ đội chủ lực Liên khu và của Tỉnh
hổ trợ, bộ đội địa phương, dân quân du kích các địa phương đã liên tiếp mở
nhiều đợt tấn công vào hệ thống đồn bốt và các cuộc hành quân càn quét của
địch. Trong 4 ngày từ 14 đến 17-5-1951, đại đội 363 phối hợp với dân quân du
kích các địa phương, tổ chức phục kích, tập kích chặn đánh các toán quân địch
đi càn quét, cướp phá tiêu diệt 70 tên, bao vây, san bằng 11 lô cốt. Ngày
12-6-1951, du kích Nam Trạch và bộ đội tiểu đoàn 227( Đại đoàn 325) mở cuộc tấn
công lớn vào hệ thông đồn địch ở Ba Dốc, tiêu diệt gon một đại đội và một trung
đội pháo, bắt sống 41 tên, thu một lựu pháo 75 ly, một súng cối 81 ly, 3 đại
liên, 60 khẩu súng các loại. Trên đà thắng lợi, được bộ đội hổ trợ, du kích và
nhân dân các xã Nam Trạch, Trung Trạch, Tây Trạch, Hải Trạch, Bắc Trạch và
nhiều thôn của xã Sơn Trạch đã nỗi dậy đấu tranh chống các thủ đoạn khủng bố,
bắt lính, cướp phá mùa, tập trung dân của địch.
Cuộc tấn công mạnh mẽ của ta trên mặt trận quân sự và sự phối hợp chặt chẽ các
cuộc nỗi dậy của nhân dân chống bắt lính, chống cướp phá mùa, đặc biệt là cuộc
tấn công lớn vào vị trí Ba Dốc đã tạo nên một sự chuyển biến lớn trên chiến
trường Bố Trạch. Chúng ta đã đẩy địch vào tình thế lúng túng, bị động buộc phải
chuyển sang phòng ngự, phải rút bỏ nhiều đồn bốt được lập ra sau trận lụt năm
1950. Các cuộc tấn công quân sự của ta, đã phá tan một bước quan trọng kế hoạch
“ Bình định gấp rút, phản công quyết liệt” của địch. Chúng ta đã giữ vững được
vùng tự do, vùng du kích và tuyến hành lang giao thông chiến lược xuyên Liên
khu và các tuyến giao thông nối vùng tự do với vùng tạm bị chiếm, giữ vững và
đảm bảo giao thông vận tải hàng hóa lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn, thưốc
chữa bệnh đi qua huyện Bố Trạch.
Thắng lợi của quân và dân Bố Trạch đầu năm 1951 cùng với thắng lợi của các
huyện Bắc Quảng Bình đã góp phần tạo nên thắng lợi chung trên toàn chiến trường
Bình-Trị-Thiên trong việc đánh bại các cuộc hành quân bình định của địch, xứng
đáng với lời khen ngợi cứ Hồ chủ tịch “ Thắng lợi ấy là do sự anh dũng của bộ
đội, lòng hăng hái của toàn dân và sức đoàn kết của quân dân chính” * (
Quảng Bình ơn Bác-Ban NCLS Đảng tỉnh ủy, ty văn hóa Quảng Bình xuất bản năm
1975, tr 21)
Trong lúc quân và dân các địa phương vùng địch kiểm soát nỗi dậy giành quyền
làm chủ thì nhân dân các xã Thượng Trạch, phúc trạch và các thôn phí tây của xã
Sơn Trạch và các xã vùng du kích tập trung lực lượng, sức lực củng cố hậu
phương kháng chiến. Đồng bào trong các vùng mới giãi phóng, hăng hái cùng nhau
xây dựng vùng giãi phóng thành các căn cứ kháng chiến. Các chi bộ Đảng Ủy ban
kháng chiến hành chính, Mặt trận Liên Việt và các đoàn thể cứu quốc tập trung
củng cố về tổ chức và đẩy mạnh các hoạt động vận động hội viên, đoàn viên thi
đua lao động sản xuất, tích cực tham gia vào các hoạt động đoàn thể, tham gia
vận tải hàng hóa phục vụ chiến trường.
Trong khí thế chung của cuộc kháng chiến, xã Phúc Trạch vừa mới được giãi phóng
đã trở thành vùng căn cư kháng chiến. hàng ngày có tơi hàng trăm cán bộ, bộ
đội, dân công và hàng ngàn tấn hàng hóa từ Nghệ-Tỉnh được chuyển vào Troóc để
chuyển tiếp vào các chiến trường phía Nam. Đầu năm 1951, nhân dân Phúc Trạch đã
đón 3.020 bộ đội và 500 tấn gạo từ Hà Tỉnh chuyển vào chiến trường
Bình-Trị-Thiên, góp phần to lớn giãi quyết nhũng khó khăn trong đời sống mà
trước đó do lũ lụt gây ra.
Đầu tháng 7-1951, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ 4 khại mạc. Đại hội
đánh giá cao những nổ lực to lớn và những thành tích đạt được của quân và dân
các địa phương trong cuộc đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của thực
dân Pháp. Mặc dù kháng chiến trong điều kiện có rất nhiều khó khăn nhưng các
tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cứu quốc không ngừng được củng cố
và phát triển mạnh mẽ. Trình độ giác ngộ chính trị, lòng nhiệt tình cách mạng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao. Đại hội đề ra nhiệm
vụ: làm tốt công tác vận động quần chúng, đẩy mạnh đấu tranh chống bắt lính,
phá mùa, bao vây kinh tế. Củng cố bộ máy chính quyền nhất là trong vùng địch
kiểm soát và vùng mới được giãi phóng. Đẩy mạnh các hoạt động diệt tề, trừ
gian, phòng chống các hoạt đọng gián điệp, nội gián của địch. Đẩy mạnh chiến
tranh du kích, phối hợp cùng bộ đội chủ lực đánh địch trên các mặt trận, làm
thất bại âm mưu “ Bình định gấp rút” của địch. Làm tốt công tác địch vận, tích
cực tăng gia sản xuất đảm bảo đời sống tại chổ và cung cấp lương thực, thực
phẩm cho cán bộ
, bộ đội…tăng cường công
tác xây dựng Đảng nhất là vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong lực lượng vũ
trang, đảm bảo nâng cao sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ.
Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 4 như một luồng gió mới cổ vũ mạnh mẽ phong trào
kháng chiến trong toàn huyên. Cùng với nhân dân, lực lượng vũ trang toàn huyện
vững vàng bước vào cuộc chiến đấu với một khí thế mới. Lúc này trên chiến
trường chính ở Bắc Bộ, ta mở chiến dịch Hòa bình, nhận thấy địch tập trung lực
lượng cho mặt trận Hòa Bình dẫn đến sơ hở ở các chiến trường khác. Chấp hành
chỉ thị của Quân ủy, Bộ chi chỉ huy Liên khu ủy IV đã có kế hoạch cho ba tỉnh
Bình-Trị-Thiên phải đẩy mạnh hoạt động phối hợp, tranh thủ tiêu diệt địch, củng
cố và mở rông căn cứ du kích, giãi phóng đất, giành dân củng cố thế đứng trên
chiến trường. Bộ chỉ huy phân khu Bình-Trị-Thiên xác định mục tiêu tiến công là
hệ thống chiếm đóng của địch ở huyện Bố Trạch và quyết định điều trung đoàn 95
cơ động ra Bố Trạch. Tại đây trung đoàn 18 cũng có mặt sẵn sàng đánh địch.
Mục tiêu được xác định là hệ thống đóng quân của địch tại Hoàn Lão, lực lượng
địch ở đây ngoài lực lượng bảo an, hương dũng, địch còn có tiểu đoàn 25 và hệ
thống đồn bốt trên tuyến quốc lộ 1A, từ Hoàn Lão vào đến Phúc Tự và dọc tuyến
dường tỉnh lộ 2.
Cuối năm 1951, tiếng súng diệt đồn, đánh viện của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích vang lên khắp nơi trong huyện Bố Trạch, mở màn cho
Đông-Xuân 1951-1952 ở mặt trận Bình-Trị-Thiên. Ngày 10-11-1951, du kích các
thôn Đại Nam và Lộc Mỹ ( Trung Trạch) phối hợp với bộ đội 363 và tiểu đoàn 227
tiêu diệt tháp canh Phúc Tự. Cùng ngày bộ đội tiểu đoàn 310, phục kích chặn
viện trên đường quốc lộ 1A tiêu diệt gọn 1 đại đội địch từ đồn Hoàn Lão vào
tăng viện cho bọ địch ở Phúc Tự. Ngày 31-11, tiểu đoàn 303 và 1 đại đội của
tiểu đoàn 227, được du kích Hoàn Lão dẫn đường đã thọc sâu vào huyện lỵ Bố
Trạch, tiến công đồn Hoàn Lão, tiêu diệt gọn 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1
đại đội khác. Trong đợt tấn công lớn vào huyện lỵ Hoàn Lão, bộ độ trung đoàn 95
và du kích địa phương đã tiêu diệt xóa sổ tiểu đoàn 25 ngụy. Từ ngày 3 đến
8-11-1951, bộ đội đại đội 363 và dân quân du kích các địa phương dọc đường quốc
lộ 1A, liên tiếp mở các cuộc tấn công vào các hệ thống phòng ngư của địch, san
bằng 13 lô cốt. Trong những ngày bộ đội trung đoàn 95 đánh địch, tại xã Tây
Trạch, dân quân du kích liên tục tổ chức đánh tập kích 18 trận, vây đồn 32 lần,
phối hợp với bộ đội đánh địch đi lùng sục 4 trận tiêu diệt 31 tên, làm bị
thương 22 tên. Phối hợp cùng bộ đôi du kích đánh giặc, Ủy ban kháng chiến hành
chính các địa phương đã huy dộng được 68.081 ngày công phục vụ vận chuyển vũ
khí. đạn, lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội chiến đấu. Với thành tích trong
chiến đấu và phục vụ chiến đấu của xã Tây Trạch, tại Đại hội tổng kết thi
đua cuối năm 1951, Tỉnh ủy Quảng Bình, quân và dân xã Tây Trạch đã được
đón nhận cuốn sách “ Tỉnh ủy bí mật” của Hồ Chủ tịch tặng đơn vị có: “ thành
tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào thi đua giết giặc lập công” * ( “
Tỉnh ủy bí mật” bản dịch từ tiếng Nga của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Tỉnh ủy
Quảng Bình dùng làn quà tặng các đơn vị có thành tích trong phong trào thi đua
giết giặc lập công-trong dịp này ngoài xã Tây Trạch còn có hai xã Hưng Hóa (
Tuyên Hóa) và hưng Đạo ( Lệ Thủy))
Vào thời gian này có 6 tiểu đoàn quân Pháp ở Nam Bộ đang trên đường ra tăng
cường cho chiến trường Bắc Bộ, đến Quảng Bình phát hiện được hoạt động của
trung đoàn 95 và cay cú trước những thất bại nặng nề trên chiến trường Bố
Trạch, tướng Pháp Đờ lát đã lệnh cho 6 tiểu đoàn quân Pháp dừng cuộc hành quân
và đổ bộ xuồng sân bay Hữu Cung ( Đồng Hới) hành quân ra Bố Trạch tiêu
diệt trung đoàn 95. Phán đoán trung đoàn 95 hành quân lên miền tây huyện Bố
Trạch, quân Pháp đã cho quân bám theo. Đêm đó bộ đội ta nghĩ lại trên dốc đỉnh
U bò, quân Pháp nghỉ dưới dốc, do đêm tối và bộ đội ta giữ được bí mật nên quân
Pháp không phát hiện được, nên cuộc chiến giữa hai bên không xảy ra* (
Quảng Bình chống thực dân Pháp xâm lược, 1945-1954, Thường vụ tỉnh ủy, Đảng ủy,
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh ấn hành 1991, tr 207-208)
Qua hơn nữa tháng liên tục tấn công và nỗi dậy, quân và dân Bố Trạch đã loại
khỏi vòng chiến đấu hơn 1.000 tên địch, tiêu diệt gọn tiểu đoàn chủ lực của
quân ngụy số 25, san bằng 20 lô cốt, hầu hết các làng xã và gần một vạn dân
được giãi phóng. Thắng lợi của quân và dân Bố Trạch trên mặt trận quân sự và
đấu tranh chính trị, đánh dấu bước trưởng thành trong chỉ đạo chiến tranh của
Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện. Đặc biệt là sự trưởng thành
nhanh chóng cuả các tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang Huyện từ chi bộ Đảng
cơ quan Huyện đội bộ đến chi bộ Đảng các đơn vị trực tiếp chiến đấu, từ Đảng
viên là cán bộ lãnh đạo đến đảng viên là chiến sĩ trong các đơn vị bộ đội địa
phương đến du kích các xã. Tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lực
lượng vũ trang Huyện đã biết căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn để
hoàn thành nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, vai trò lãnh
đạo, chỉ huy trong chiến đấu; đảm bảo thúc đẩy mạnh mẽ chiến tranh du kích và
lối đánh vận động chiến ngày càng phát triển, giành được nhiều chiến công và
thành tích xuất sắc.
Cuộc tấn công chiến lược của bộ đội trung đoàn 95, đại đoàn 325, bộ đội địa
phương, dân quân du kích trong Đông-Xuân 1951-1952, đã làn rung chuyển cả hệ
thống chiếm đóng chiếm đóng của địch trên đất Bố Trạch. Thực dân Pháp nhận thấy
không thể dùng sức mạnh quân sự và những thủ đoạn chính trị để giàng chiến
thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng. Cuối năm 1951, quân pháp buộc
phải rút khỏi Cự Nẫm, một chốt điểm hết sức quan trọng trên tuyến đường tỉnh lộ
số 2, một vị trí mà chúng phải trả nhiều xương máu mới chiếm đoạt được, đúng
như đánh giá của Tỉnh ủy: “ Việc địch rút Cự Nẫm không phải có tác dụng về quân
sự hoặc bỏ lại đây đồng ruộng phì nhiêu cho Bố Trạch mà là cả một thất bại lớn
về chính trị làm cho binh lính địch hoang mang, nhân dân ta càng thêm phấn
khởi, tin tưởng. Điều đó cũng chứng tỏ sự tiến bộ của phong trào đấu tranh của
nhân dân ta trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích * ( Nghị quyết của
Tỉnh ủy về chủ trương công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du kích tr 36, 37 tài
liệu lưu trử tại Văn phòng Huyện ủy Bố Trạch)
Đầu tháng 1-1952, Tỉnh ủy Quảng bình họp hội nghị đánh giá lại việc thực
hiện Nghị quyết của Trung ương về công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du kích.
Hội nghị đánh giá: “ Vừa qua, quân và dân các địa phương đã nổ lực vượt qua mọi
khó khăn và giành được những thắng lợi lớn, tạo đà, tạo thế cho thời kỳ mới.
Nhưng bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém, nhất là xây dựng cơ sở, địch
vận, diệt tề trừ gian …”. Để tiếp tục đưa phong trào tiến lên, Hội nghị ra Nghị
quyết trong đó chỉ rõ:“ Xây dựng cơ sở vững chắc để kháng chiến lâu dài, lãnh
đạo nhân dân chống âm mưu tổng động viên của địch, phát triển chiến tranh du
kích, xây dựng bộ đội địa phương và củng cố dân quân du kích xã,đẩy mạnh vận
động ngụy binh, phá tề trừ gian, đề phòng gián điệp” ( Lịch sử lực lượng
VTND huyện Bố Trạch-sdd tr 117).
Thực hiện Nghị quyết về công tác vùng tạm bị chiếm của Tỉnh ủy, được sự chỉ đạo
của Huyện ủy, các chi bộ Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ và đơn vị bộ đội địa
phương đã phân tán lực lượng theo từng phân đội nhỏ, đưa cán bộ đảng viên,
chiến sĩ về bám dân xây dựng cơ sở, củng cố lại lực lượng những nơi có phong
trào yếu và tham gia cùng dân quân du kích đánh địch.
Bị thất bại nặng nề trên các chiến trường, quân Pháp ở Quảng Bình ráo riết củng
cố lại các hệ thống phòng ngự và thực hiện âm mưu “ Tổng động viên”, chuyển bọn
hương vệ thành ngụy binh.
Tại Bố Trạch, từ ngày 27-12-1951 đến 15-2-1952, quân Pháp cho quân đóng lạ đồn
Ba Dốc, xây lô cốt Phúc Tự nơi có đồng bào theo đạo Thiên Chúa, chúng bắt dân
xóm chợ ở Hoàn Lão, xóm Rậy ( Tây Trạch), Đại Lộc dời nhà ra ở quanh đồn để lập
khu “ vực trắng”.Chúng tăng cường quân ứng chiến cho đồn Hoàn Lão, dùng ca nô,
tàu chiến theo sông Son đánh lên Phú Hữu, tổ chức bắt lính…chúng mở các cuộc
càn quét quy mô lớn vào vùn mới giải phóng, vùng du kích nhằm chiếm lại những
vùng đất bị mất, và mở rộng vùng chiếm đóng.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, trung đoàn 95 và trung đoàn 18 của Đại đoàn 325
được lệnh rút khỏi Bố Trạch*( Tháng 1-1952, trung đoàn 18 hành quân lên
Việt Bắc nhận và chuyển vũ khí về cho trang bị cho Đại đoàn 325 nhằm thống nhất
trang bị). Mặc dù chiến đấu trong điều kiện thiếu sự hổ trợ chua bộ đội chủ lực
Liên khu, nhưng lực lượng vũ trang địa phương Bố Trạch vẫn giử được thế tiến
công, liên tục tổ chức nhiều cuộc tấn công đánh tan các cuộc hành quân càn
quét, đánh phá, bắt lính của địch. Trong tháng 2-1952, bộ đội 363 phối hợp với
dân quân du kích thôn Phương Hạ, Đại Nam, xã Bắc Trạch, Hãi Trạch liên tục chặn
đánh bọn địch đi ứng chiến trên đường Phúc Tự-Chánh Hòa; đánh địch đi lùng ở
Cao Nguyên, Cao Lao Hạ, Ba Đề; phục kích đánh giao thông ở Thanh Khê, cầu Khe
Nước, đèo Lý Hòa, phá cầu Hiểm, cầu Dinh, cắt hàng trăm mét dây điện thoại..Bộ
đội 363 cùng dân quân du kích Tây Trạch bao vây quấy rối đồn Sen Bàng. Dân quân
du kích Hải Trạch phối hợp với bộ đội 363 bao vây, quấy rối đồn Thọ Lộc, Vạn
Lộc trong nhiều ngày, buộc địch phải cho máy bay đến tiếp tế lương thực, thực
phẩm, đạn dược và điều quân ứng chiến ra giải vây.
Liên tiếp bị thất bại, nhằm cứu vãn tình thế và củng cố lòng tin cho bọn ngụy
quân, ngụy quyền tay sai. Đầu năm 1952, thực dân Pháp ở Quảng Bình đã mở một
cuộc càn quy mô lớn vào vùng đồng bằng Bố Trạch hòng chiếm lại các vùng đất đã
bị mất và tiêu diệt bộ đội, du kích, bình định vùng đất chúng chiếm đóng.
Kiên quyết phá tan âm mưu của địch, ngày 15-3-1952 ngay sau khi trở lại chiến
trường Quảng Bình, Ban chỉ huy trung đoàn 18 đã điều 2 tiểu đoàn 274 và 332
tham gia phối hợp với đại đội 363 và dân quân, du kích Hoàn Lão đánh trận Hoàn
Lão-Vạn Lộc tiêu diệt 250 tên địch, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn ứng
chiến. Trận chống càn thắng lợi ngay trong vùng địch kiểm soát đã làm thất bại
âm mưu giành lại thế chủ động của địch trên chiến trường Bắc Quảng Bình.
Trên đà thắng lợi đã giành được ở mặt trận Bình-Trị-Thiên, Liên khu ủy khu 4
chủ trương tập trung chủ lực mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt một bộ phận lớn
sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giãi phóng huyện Quảng Trạch, mở rộng vùng
tự do Liên khu 4 xuống phía Nam. Thực hiện kế hoạch của Khu ủy, Ban chỉ huy Đại
đòan 325 quyết định điều 2 trung đoàn 95 và 18 mở cuộc tấn công vào vùng Bắc
Quảng Bình. Sau một thời gian chuẩn bị chiến trường, trung đoàn 95 được lệnh
tiến đánh tiêu diệt vị trí Sen Bàng mở đầu chiến dịch. Đánh Sen Bàng lần này,
ngoài trung đoàn 95 còn được tăng cường thêm tiểu đoàn công pháo 888, có sự
phối hợp của tiểu đoàn 229 cùng bộ đội 363 và dân quân du kích, nhân dân xã Tây
Trạch và thôn Đại Nam ( Trung Trạch). Ngày 19-5-1952, đúng ngày sinh nhật
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung đoàn 95 do đồng chí Lê Bá Vận trung đoàn trưởng,
đồng chí Trần Bành chính trị viên chỉ huy đã nổ súng tấn công địch ở đồn Sen
Bàng. Được sự yểm trợ của pháo binh, súng cối; với tinh thần chiến đấu lập công
dâng lên ngày sinh nhật Bác Hồ, bộ đội ta đã nhanh chóng dùng bộc phá mở đột
phá khẩu tiến công vào đồn địch, chỉ trong vòng chưa đầy hai tiếng đồng hồ, bộ
đội ta đã san bằng đồn Sen Bàng, tiêu diệt gọn một tiểu đoàn địch, bắt sống 30
tên.
Mất Sen Bàng, kẻ địch mất đi một vị trí quan trọng trong việc kiểm soát tuyến
đường giao thông, liên lạc của ta ở miền Tây Quảng Bình. Ngày 20-5-1952, quân
Pháp đã điều tiểu đoàn ứng chiến 1/3 RTM và 1 đại đội quân ngụy hành quân lên
Sen Bàng hòng tái chiếm đồn Sen Bàng. Dọc đường đi, chúng bị bộ đội đại đội
101, đại đội 57 thuộc trung đoàn 18 và bộ đội, du kích địa phương chặn đánh
nhiều nơi, khi gần đến Sen Bàng, địch rơi vào trận địa phục kích của tiểu đoàn
229 và đại đội 98, ta tiêu diệt và làm bị thương 48 tên. Ta có 6 đồng chí hy
sinh, 28 đồng chí bị thương. Quân Pháp không tái chiếm được đồn Sen Bàng.
Chiến thắng Sen Bàng, quân và dân ta đã nhổ được một chốt hiểm của địch trên
tuyến giao thông liên lạc từ hậu phương Thanh-Nghệ-Tỉnh vào chiền trường Bình-
Trị- Thiên, giãi phóng được hàng trăm đồng bào theo đạo Thiên Chúa, mở rộng
vùng du kích, khai thông tuyến đường giao thông liên lạc giữa vùng chiến khu
với vùng tạm bị chiếm phía Nam huyện Bố Trạch và thị xã Đồng Hới; tạo bàn đạp
để ta tiến công vùng sau lưng địch. Chiến thắng Sen Bàng đã để lại cho cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân những bài học, kinh nghiệm quý về cách đánh công kích và
đánh vận động, về
việc tổ chức phối hợp các lực lượng, về công tác dân vận tuyên truyền vận động
đồng bào công giáo trước, trong và sau trận đánh.
Trên đà thắng lợi, ngay sau khi giãi phóng được Sen Bàng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy
mặt trận quyết định đưa trung đoàn 95 xuống đồng bằng phối hợp với trung đoàn
18 và lực lượng vũ trang hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch tiến đánh giãi phóng
Ba Đồn và Mỹ Hòa. Trong những ngày bộ đội trung đoàn 18 và 95 tiến công vào hệ
thống phòng ngự của địch ở Ba Đồn thì tại Bố Trạch, du kích xã Hãi Trạch và bộ
đội tiểu đoàn 302 ( trung đoàn 18) phục kích trên đèo Lý Hòa đánh tan 1 tiểu đoàn
địch từ Đồng Hới ra tiếp viện cho quân Pháp ở Ba Đồn. Tại các làng Cao Lao Hạ,
Ba Đề, Thanh Khê du kích phối hợp với bộ đội trung đoàn 95 làm nhiệm vụ chặn
viện dọc bờ Nam sông Gianh đã đánh tan nhiều cuộc ứng viện của bọn địch ở Thanh
Khê sang Ba Đồn, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Quảng Trạch đánh địch
giãi phóng Ba Đồn và Mỹ Hòa và giãi phóng hoàn toàn huyện Quảng Trạch trong
ngày 31-5-1952.
Chiến thắng Sen Bàng-Ba Đồn có một ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn trên chiến
trường Quảng Bình. Lần đầu tiên, chúng ta đã phá vỡ tuyến phòng thủ kiên cố
nhất của địch ở vùng Bắc Quảng Bình, làm phá sả kế hoạch “ Bình địng gấp rút”
và “ Rào chiến khu chốt cửa vào Nam” của địch ở Bố Trạch, mở rộng vùng giãi
phóng phía Bắc Quảng Bình. Chiến thắng Sen Bàng – Ba Đồn cùng các chiến thắng
trên chiến trường ba tỉnh Bình-Trị-Thiên làm cho kẻ địch vô cùng hoang mang,
xem đây là một thất bại ngoài sức tưởng tượng như đánh giá của Xa-Lăng tổng chỉ
huy của quân đội Pháp ở Đông Dương: “ Vì sao đối phương những người nông dân đã
từng được những tướng lĩnh và chính khách thuộc địa đánh giá là nhát như bầy
chim sẻ lại lớn mạnh như vậy? Họ đương đầu ngày càng hữu hiệu với 400 ngàn quân
Pháp-Việt được Mỹ viện trợ ngày càng nhiều! lối đánh của họ thật kỳ lạ, khó hiểu
và không chịu đựng nổi?”* ( Trần Trọng Trung-L/s cuộc chiến tranh bẩn
thỉu-NXB QĐND VN-H1984, tr294). Chiến thắng Sen Bàng-Ba Đồn đánh dấu bước
trưởng thành trong công tác lãnh đạo, chỉ huy, trong xây dựng phương án tác
chiến, kế hoạch phối hợp chiến đấu giữa bộ bbooj chủ lực Liên khu, của Tỉnh với
bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân, giữa mặt trận chính diện với
mặt trận vùng sau lưng địch, giữa Huyện đội bộ hai địa phương Bố Trạch và Quảng
Trạch. Chiến thắng này cũng đánh dấu bước trưởng thành trong công tác Đảng,
công tác chính trị của các chi bộ Đảng trong Huyện đội bộ và đại đội bộ đội địa
phương, các xã đội đã làm tốt công tác tư tưởng, xác định rõ nhiệm vụ chiến
đấu, những khó khăn, gian khổ và cả hy sinh trong một chiến dịch lớn, đánh dài
ngày, phạm vi tác chiến rộng, lực lượng phối hợp cùng đánh cấp trung đoàn…Chính
điều đó đã đưa đến cán bộ đảng viên, chiến sĩ ổn định về tư tưởng, tâm lý, đoàn
kết, thống nhất cao về ý chí và hành động nên đã tạo được sức mạnh chiến đấu để
vượt qua những khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu giãi
phóng Sen Bàng-Ba Đồn chỉ trong vòng chưa đến 15 ngày kể từ ngày nỗ súng đến
kết thúc chiến dịch (19-5-30-5-1952).
Sau những thất bại trên chiến trường Quảng Bình, đặc biệt sau thất bại nặng nề
ở Sen Bàng và Ba Đồn đây là lời cảnh báo đối với thực dân Pháp về nguy cơ thất
bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Quảng Bình đã và đang trở thành
thực tế. Để kéo dài thêm những giờ hấp hối cuối cùng trong cơn giãy chết, quân
Pháp ở Bố Trạch vội vàng điều chỉnh lại lực lượng, chúng rút đồn Thọ Lộc, lập
đồn Âm Tiến, Cồn Trụm và lập thêm một loạt tháp canh dọc đường quốc lộ 1A từ
Thanh Khê vào đến Ba Dốc. Quân Pháp ở Bố Trạch được tăng cường thêm tiểu đoàn
27 Âu Phi, tiểu đoàn 3 Tuy – Ni-Di, tiểu đoàn 2 lê dương làm nhiệm vụ cơ động
ứng chiến và giúp bọn ngụy quân củng cố các vị trí chúng vừa thiết lập. Chúng
tăng cường các hoạt động quân sự, mở nhiều cuộc hành quân càn quét lớn, nhỏ,
dài ngày trên một phạm vi hẹp, có trọng tâm, trọng điểm. Chúng tập trung đánh
vào những nơi bộ đội, du kích ta hoạt động mạnh, càn quét đến đâu chúng thực
hiện lập hội tề đến đó, đồng thời thực hiện âm mưu “ Bắt lính triệt để” nhằm bổ
sung cho lực lượng lính bị ta tiêu diệt.
Mặc dù phải luôn đối phó với các hoạt động quân sự, đánh phá, càn quét..của
địch, song phong trào kháng chiến của nhân dân ta vẫn luôn được duy trì và phát
triển ngày càng mạnh mẽ. Đứng trước hoạt động “ Bắt lính triệt để” của địch
ngày càng gia tăng, trong nhiều địa phương nhất là vùng sau lưng địch, phong
trào đấu tranh bảo vệ thanh niên, phong trào chống bắt lính nổ ra khắp nơi và
thực sự trở thành phong trào của quần chúng đã cuốn hút mọi từng lớp nhân dân
nhất là các mẹ, các chị tham gia mạnh mẽ. Từ cuối năm 1951 và năm 1952, tại các
xã Nam Trạch, Trung Trạch, Hải Trạch, Bắc Trạch và một số thôn của vùng du kích
xã Tây Trạch, quần chúng nhân dân tổ chức hàng trăm cuộc đấu tranh chống bắt
lính. Họ kéo nhau lên đồn đòi trả chồng, con, em bị bắt về đồn đi lính, đấu
tranh không cho lính vào làng bắt thanh niên…nhất là các cuộc đấu tranh chống
bắt lính của nhân dân Lý Hòa, Thanh Khê, Đồng Cao, Hoàn Lão có khi lên tới 200
đến 300 người tham gia. Cùng với đấu tranh chống bắt lính, quần chúng nhiều địa
phương
tổ chức hàng chục
cuộc đấu tranh chống nộp thuế “ Đảm phụ quốc phòng”, đóng tiền “ Bảo hiểm chiến
tranh”, thuế “ Tản cư”; Tại làng Lý Nhân Nam hàng trăm ngư dân đấu tranh trong
nhiều ngày kiên quyết không đăng ký thuyền, lưới, tên tuổi ngư dân và không nộp
thuế “ Thuyền sách”.
Cuộc tiến công mạnh mẽ của ta trên mặt trận quân sự và các phong trào đấu tranh
của quần chúng trong năm 1952 đã có tác động lớn đế tư tưởng, tình cảm sỹ quan,
binh lính ngụy và những người tham gia làm việc trong bộ máy chính quyền tay
sai, đã làm thức tỉnh lòng yêu nước của nhiều người lầm đường đi theo giặc làm
tay sai. Trong hàng ngủ địch, xuất hiện tư tưởng chây lỳ trong luyện tập, không
chịu ra trận. Cuối năm 1952, ở đồn Thanh Khê có hơn 200 lính và 300 hương vệ
đấu tranh chống lại bọn chỉ huy không chịu ra trận. Ở đồn Hoàn Lão có 30 lính
đấu tranh đòi được đi phép. Tại đồn Cây Đa ở Hoàn Lão có 10 lính nỗi lên làm
binh biến mang vũ khí trở về với kháng chiến. Tư tưởng chán ghét chiến tranh
còn lan đến cả trong hàng ngủ lính viễn chinh Pháp. Ở Nam Trạch lính Âu Phi đã
tìm cách giãi thoát cho 20 thanh niên bị chúng bắt đi lính trở về với gia đình.
Trong đấu tranh nhân dân đã biết kết hợp nhiều hình thức đấu tranh chính trị,
kinh tế, dân vận, địch vận..nhằm đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của địch để đạt
các mục tiêu đấu tranh đề ra.
Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị đã tạo ra
những lợi thế vô cùng to lớn để nông dân trong cả ba vùng tự do, du kích và
vùng sau lưng địch tranh thử mọi thời gian,điều kiện có được để đẩy mạnh công
cuộc kiến quốc. Trên mặt trận nông nghiệp, nông dân học tập kinh nghiệm sản
xuất thâm canh, gối vụ, cải tiến công cụ sản xuất của nông dân tỉnh Thanh Hóa
vào thực tế sản xuất của địa phương. Chính vì vậy, một không khí thi dua lao
động sản xuất sôi nỗi diễn ra rộng khắp trong từng địa phương, cơ quan, nông
dân đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn dùng sức người kéo cày thay trâu, gánh
nước sông, nước hồ tưới cho hoa màu, những nơi có điều kiện thì huy động lực
lượng làm thủy lợi đáp đập tạo hồ chứa, đào kênh mương, dung gàu tát nước cứu
lúa. Chính từ các phong trào thi đua và sự quyết tâm không chịu lùi bước trước
khó khăn do thiên tai, địch họa gây ra mà vụ chiêm năm 1952, toàn Huyện thu
hoạch vụ chiêm thắng lợi và lần đầu có được 270 tấn thóc nộp thuế nông nghiệp
cho nhà nước
Kinh tế nông nghiệp sau nhiều năn bị đình đốn do chiến tranh nay từng bước được
khôi phục có bước phát triển, điều đó đã thúc đẩy các ngành nghề thủ công
nghiệp và thương mại: Các nghề dệt thao, dệt đũi ở Đồng Cao, Cao lao Hạ, nghề
rèn trong các làng và ở Mai Hồng, nghề làm đường chén, đường đọi ở Chánh
Hòa..phát triển làm ra nhiều sản phẩm không chỉ đáp ứng một phần các mặt hàng
phục vụ cuộc sống và chiến đấu tại chổ, đồng thời đưa ra thị trương trao đổi,
buôn bán.
Hoạt động kinh tài của Huyện được duy trì, công đoàn vận tải và ngành mậu dịch
được được thành lập, nhiều điểm bàn hàng, nhiều chợ được lập ở Troóc, Bồng Lai,
vùng du kích, vùng mới giãi phóng tạo được sự bình ổn về giá cả và phục vụ kịp
thời việc mua bán, trao đổi trong nhân dân và cán bộ, chiến sĩ. Ban kinh tài
của Huyện cũng mở rộng việc giao lưu, buôn bán với các địa phương trong và
ngoài Tỉnh, đưa hàng trăm tấn nông sản vào trao đổi với các huyện cửa hai tỉnh
Quảng Trị và Thừa Thiên. Trong năm 1952, Ban kinh tài huyện đã đưa được hàng
trăm con trâu, bò vào trao đổi với tỉnh Thừa Thiên, tạo một nguồn sức kéo cho
bạn, đồng thời đưa về một lượng lớn hàng hóa về cho Huyện. Việc đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kinh tài, mậu dịch đã đưa đến đời
sống của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ tạm ổn định, đồng thời tạo điều kiện cho
Huyện hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Đầu năm 1952, toàn Huyện đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế nông nghiệp và thu được 26.028.842 đồng tiền thuế công
thương nghiệp.
Chặng đường kháng chiến đầy thử thách của lực lượng vũ trang Bố Trạch từ tháng
10-1950 đến hết năm 1952 đã để lại cho các tổ chức Đảng trong lực lượng vũ
trang những bài học kinh nghiệm quý trong công tác lãnh đạo, chỉ huy thực hiện
nhiệm vụ chiến đấu. Đó là Cấp ủy, chi bộ Đảng cơ quan Huyện đội bộ với vai trò
là một tổ chức Đảng làm nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy Huyện về công tác Đảng,
công tác chính trị, công tác xây dựng lực lượng và công tác quân sự đối với lực
lượng vũ trang toàn huyện đã tập trung chỉ đạo các chi bộ Đảng đại đội 363, đại
đội 300 và các xã đội tập trung thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, làm
tốt công tác chính trị tư tưởng, duy trì nghiêm các chế độ sinh hoạt, nguyên
tắc Đảng đảm bảo tổ chức Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo. đồng thời tổ chức
quán triệt đầy đủ tinh thần nội dung chủ trương của Huyện ủy và Tỉnh đội nhằm
nâng cao nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ về nhiệm vụ của
từng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, du kích trên mỗi địa bàn được phụ
trách. Các lực lượng căn cứ vào nhiệm vụ chiến đấu thực hiện tốt nhiệm vụ trinh
sát chiến trường, nắm vững địa bàn, sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực Liên
khu đánh lớn. Mặt khác bộ đội địa phương, dân quân du kích chủ động đánh địch
theo phương châm tác chiến: Chiến tranh du kích đánh bại địch, mở rộng vùng
giãi phóng. Vì vậy, dù gặp rất nhiều gian khổ, khó khăn nhưng cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ trước, trong và sau mỗi trận đánh tinh thần, khí thế chiến đấu
của bộ đội, dân quân du kích luôn được giữ vững.
Chặng đường kháng chiến đầy thử thách từ tháng 10 năm 1950 đến hết năm 1952 ở
Bố Trạch diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Để phá tan các âm mưu, thủ đoạn
của thực dân Pháp, các cấp ủy Đảng trong lực lượng vũ trang Huyện đã biết nắm
bắt và vận dụng sáng tạo các Nghị quyết của Đảng bộ Huyện, chủ trương, kế hoạch
tác chiến của Tỉnh đội vào thực tế chiến đấu để đẩy mạnh các hoạt động chiến
đấu và công tác xây dựng lực lượng. Thực tế của cuộc chiến đấu cho thấy trong
các lực lượng vũ trang huyện, ở đâu có tổ chức Đảng vững mạnh, cán bộ đảng viên
trung kiên thì đơn vị đó phong trào kháng chiến mạnh, tổ chức chiến đấu và
chiến đấu thắng lợi. Ngược lại trong điều kiện nhất định nào đó tổ chức Đảng có
những tồn tại, yếu kém thì dẫn đến trình trạng lúng túng trong công tác lãnh
đạo, chỉ huy làm ảnh hưởng đến hiệu suất chiến đấu. Điều đó được thể hiện tổ
chức Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ đến đơn vị chiến đấu nhạy bén, có nhiều
chủ trương, phương án tác chiến, công tác chỉ huy đúng đắn, kịp thời, cương
quyết đưa đến tinh thần chiến đấu của bộ đội, dân quân du kích được giữ vững,
có ý chí, quyết tâm chiến đấu cao. Trãi qua 5 năm chiến đấu, lực lượng vũ trang
Bố Trạch không ngừng trưởng thành cả quân số và chất lượng chiến đấu; Từ 1
trung đội du kích thường trực đã phát triển đại đội bộ đội địa phương và hàng
trăm dân quân du kich; Từ chổ hoạt động lẻ tẻ với lối đánh du kích chiến là chủ
yếu đã tiến lên đánh hợp đồng với chiến thuật vận động chiến cấp tiểu đoàn,
trung đoàn, tiêu diệt được nhiều sinh lực và phá tan các âm mưu, thủ đoạn của
địch, giãi phóng một phần rộng lớn đất đai vùng đồng bằng ven biển góp phần mở
rộng vùng giãi phóng phía Bắc của tỉnh. Đó là cơ sở, tiền đề để các tổ chức
Đảng trong lực lượng vũ trang đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, công tác chính
trị, công tác xây dựng lực lượng và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ huy
trong những năm cuối của cuộc kháng chiến.
Bước vào năm 1953, trước những thắng lợi trên mặt trận quân sự ở các huyện vùng
Bắc Quảng Bình trong năm 1952, đã đẩy quân Pháp vào thế bị động, lúng túng
trong việc đối phó với sức mạnh tấn công ngày càng gia tăng của bộ đội, du
kích. Trong đông xuân 1952-1953, quân Pháp ở Quảng Bình có những động
thái tăng cường hệ thống đồn bốt, quân số; toàn tỉnh có 18 đồn, 24 tiểu đoàn, 4
cứ điểm mạnh, 96 lô cốt, ngoài ra còn có một số điểm đóng quân của bọn hương
vệ, tổng vệ. Về lực lượng, do thiếu hụt quân số nên một số đơn vị nhất là các
tiểu đoàn cơ động quân số không đầy đủ. Tiểu đoàn ứng chiến Âu Phi 2/4 RTM chỉ
còn 2 đại đội, trung đoàn Nguyễn Huệ giãi tán, chỉ để lại 2 tiểu đoàn 12 và 23,
mỗi tiểu đoàn có khoảng 500 quân; ngoài ra quân ngụy còn có 3 đại đội
Com-măng-đô và khoảng 200 hương vệ, tổng vệ thoát ly.
Về lực lượng ta, thực hiện Nghị quyết của Trung ương và kế hoạch chuyển quân
của Bộ chỉ huy mặt trận Bình-Trị-Thiên; đầu tháng 1-1953, Trung đoàn 18 hành
quân ra Nghệ-Tỉnh để thành lập Đại Đoàn. Trước tình hình đó, giữa tháng 1-
1953, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình mở Hội nghị liên
tịch, đề ra phương châm tác chiến và nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du
kích, xây dựng cơ sở, trong đó nhấn mạnh: lúc này bộ đội địa phương và dân quân
du kích là lực lượng chủ chốt ở địa bàn, do vậy phương châm tác chiến của ta
vẫn xác định là “ Du kích chiến tranh là chính, lấy chống càn và phá càn làm
chủ yếu; đồng thời kết hợp xây dựng cơ sở hổ trợ phong trào đấu tranh chính trị
của nhân dân”. Chủ trương đúng đắn, kịp thời của Hội nghị liên tịch của tỉnh,
đã tạo ra sự chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của lực lượng vũ
trang.
Trước tình hình đó, Chi ủy, Ban chỉ huy Huyện đội bộ, các chi bộ Đảng đại đội
363, đại đội 300 và các xã đội đã tập trung lãnh đạo các đơn vị chuyển mạnh
hướng tác chiến theo phương châm tác chiến đã được xác định. Chính nhờ sự
chuyển hướng đúng đắn, kịp thời mà phong trào “ Du kích chiến tranh” ở Bố Trạch
tiếp tục được đẩy mạnh đều khắp các địa phương và giành thêm nhiều chiến thắng
mới. Trên tuyến đường quốc lộ 1A, địch thường xuyên bị du kích các làng ven
đường phục kích, tập kích. Bộ đội 363 cùng dân quân du kích bao vây, quấy rối
bọ địch ở đồn Cồn Tuần, đồn Phủ, san bằng hai vị trí hương tổng dũng. Đại đội
363 phục kích tại cầu Khe Nước, diệt gọn một trung đội địch đi tuần. Trong đội
ngũ dân quân du kích nỗi lên với tài đánh theo lối du kích, được nêu gương cho
đồng đội học tập…anh Phan Ruy chiến sĩ du kích và liên lạc địch vận của xã Bắc
Trạch, trong ngày 11-3-1953 trên đường đi công tác gặp địch đi càn, dù chỉ một
mình, anh đã mưu trí chiến đấu, tiêu diệt gọn một trung đội địch, thu toàn bộ
vũ khí và còn truy đuổi một toán lính đich chạy thoát vào tận đồn Đá Đen ( Hải
Trạch) bắt sống 2 tên, thu một súng. Phan Ruy mới 25 tuổi nhưng sớm nỗi tiếng
là một du kích mưu trí, dũng cảm của huyện Bố Trạch với những chiến công lập
được trong chiến đấu, đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng
ba, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình tặng giấy khen. Cũng vào thời
gian này, du kích thôn Đại Nam tập kích đồn Rú Đình và Lòi Sót, thu 21 quả lựu
đạn. Du kích Hải Trạch, Bắc Trạch phối hợp với đại đội 363 và tổ vũ trang tuyên
truyền của Huyện, tiến công tiêu diệt 4 ban tề ở các làng Lý Hòa, Đồng Cao, Quy
Đức, Thanh Khê. Tháng 6-1953, đại đội 363 chặn đánh một đại đội lính Ma-Rốc từ
Đồng Hới ra yểm trợ cho cho bọn lính công binh xây lô cốt ở làng Thuận Phú,
tiêu diệt và làm bị thương 41 tên. Đầu tháng 7-1953, bộ đội 363 phối hợi với du
kích các làng Hoàn Phúc, Vạn lộc ( Hải Trạch) và Tây Trạch bao vây tiến công
đồn Âm Tiến trong nhiều ngày, đánh tan một trung đội địch, diệt 22 tên, phá hủy
hai xe quân sự, thu hai súng tiểu liên và một số lựu đạn. Bọn địch phải điều 85
xe cam nhông chở đầy lính, vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm đến giải
vây. Liên tiếp trong nhiều ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7, Ủy ban kháng chiến
hành chính các địa phương dọc đường quốc lộ 1A đã huy động hàng trăm người đào
đường đắp ụ, hầm hào, gây nhiều khó khăn cho địch trong việc vận tải, chuyên
chở binh lính, vũ khí đi đánh phá, chi viện cho các nơi. Giữa tháng 7, du kích
các thôn Phương Hạ, Chánh Hòa phối hợp phá tuyến đường thông tin liên lạc của
địch từ đồn Cồn Trụm về Chánh Hòa cắt đức 2.400 mét đường dây điện thoại, làm
gián đoạn hoạt động thông tịn liên lạc của địch trong nhiều ngày.
Song song cùng với việc đẩy mạnh hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh cũng
diễn ra sôi nỗi và quyết liệt trong vùng tạm chiếm. Hội phụ nữ các xã tổ chức
hàng ngàn chị em và các gia đình có người thân bị bắt đi lính cho Pháp, kéo lên
đồn đấu tranh đòi phải trả lại chông con, người thân. Ngày 23-7-1953, hơn
150 chị em phụ nữ Lý Hòa đấu tranh chống địch vào làng bắt lính. Cuộc đấu tranh
kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ, kết quả chúng chỉ bắt được 15 thanh niên đưa về
đồn Đồng Bơi. Tối hôm đó và cả ngày hôm sau, nhân dân Lý Hòa lại kéo lên đồn
tiếp tục đấu tranh, nhiều người phụ nữ bất chấp bọn lính cản ngăn, nhiều bà mẹ
đã trèo lên xe nhà binh và xe tên Dính huyện trưởng Bố Trạch giằng kéo lôi bằng
được con cháu mình trở lại. Các mẹ Hoàng Thị Sứ, Lê Thị Tầm đã nằm lăn ra giữa
đường ngay trước đầu xe đòi địch phải trả số thanh niên bị bắt. Cuộc đấu
tranh chống bắt lính của phụ nữ Lý Hòa đã nhanh chóng lan sang các làng Quy
Đức, Đồng cao, Thuận Phú…cùng ngày tại Quy Đức, địch vào làng bắt được 10 thanh
niên, họ đã giã ốm, giã điếc, lấy ớt xát vào mắt để tìm cách trốn không đi
lính.
Trong dịp thực dân Pháp tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội bù nhìn thân Pháp, mặc dù
bọ địch sử dụng nhiều biện pháp mạnh cho binh lính vào tận các nhà bắt ép mọi
người đi bỏ phiếu, thậm chí chúng còn bắn đại bác, thả bom, vào làng, ngoài
đồng ruộng không cho dân đi lại sản xuất… Thấy rõ âm mưu của địch, được
sự hổ trợ của bộ đội 363, dân quân du kích, quần chúng nhân dân nhiều nơi trong
vùng bị chiếm đã đấu tranh không đi bỏ phiếu, không tham gia vào hội đồng hương
chính. Ngày 6-7-193, bốn gia đình ở xứ đạo công giáo Vạn Lộc đã keo nhau lên
đồn đấu tranh, vạch rõ tội ác bắn pháo vào làng của địch: “ Từ trước đến nay
Việt Minh chưa đốt nhà mà các ông nói họ độc ác, nay các ông bắn pháo vô làng
thì ai độc ác”. Tại Lý Hòa địch về bao vây làng không cho dân đi biển, cưởng
bức dân đi bỏ phiếu…Ngày 23-8-1953, bọn đich ở đồn Hoàn Lão cho lính bao vây
xóm Chợ, xóm Chồn, bắt một số cụ già ra tham gia hội đồng hương chính, các cụ
kịch liệt phản đối, chúng bắt các cụ về giam tại đồn Hoàn Lão.
Thắng lợi của quân và dân ta ở chiến trường Hòa Bình, Tây Bắc, đồng bằng Bắc
Bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên và chiến trường Bình-Trị-Thiên đã mở ra một cục
diện mới trên chiến trường, Ta càng đánh càng mạnh, liên tiếp giành được nhiều
thắng lợi lớn và giành được quyền chủ động trên chiến trường. Để chuẩn bị cho
những bước phát triển tiếp theo của cuộc kháng chiến, tháng 9-1953, thực hiện
chủ trương của Ban chấp hành Trung ương, của Quân ủy và của tỉnh ủy về đợt
chỉnh Đảng, chỉnh quân. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Bố Trạch, Chi ủy, chi bộ
cơ quan Huyện đôi bộ và các đại đội chiến đấu đã tập trung tổ chức cho cán bộ,
đảng viên và chiến sĩ học tập, nghiên cứu về mục đích, yêu cầu và các nội dung
cần chỉnh huấn. Từ đó nhằm nâng cao nhận thức chính trị về lập trường, quan
điểm giai cấp Công nhân, ý thức cách mạng, lòng quyết tâm trường kỳ kháng
chiến, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng lòng tin vào sự thắng lợi cuối cùng của
cuộc kháng chiến. Đồng thời chống tư tưởng phong kiến, khắc phục tư tưởng tiểu
tư sản và các biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, ngại gian khổ, hy sinh và tác
phong quan liêu, xa thực tế, muốn ở lại cơ quan, căn cứ tránh nhiệm vụ chiến
đấu. Trong học tập Chi ủy, chi bộ Đảng đã gắn công tác chỉnh Đảng, chỉnh huấn
với việc kiểm điểm đánh giá tình hình đơn vị, địa bàn hoạt động và trách nhiệm,
nhiệm vụ của mỗi người, để cán bộ, đảng viên và chiến sí cùng thảo luận, quán
triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm của Trung ương và của Quân ủy.
Đợt chỉnh Đảng, chỉnh huấn đã tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng
Đảng về chính trị tư tưởng và tổ chức, cán bộ; đồng thời tạo điều kiện tốt cho
việc đẩy mạnh xây dựng tác phong lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chính trị, quân sự
và ý thức trách nhiệm trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao trong toàn lực
lượng vũ trang từ bộ đội địa phương đến dân quân du kích.
Tuy vậy, qua đợt chỉnh Đảng, chỉnh huấn còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm
đó là chỉ tập trung tổ chức chỉnh Đảng, chỉnh huấn trong nội bộ đơn vị, thiếu
dựa vào nhân dân, chưa gắn kết nhiều vào hoạt động thực tiển của cuộc chiến
đấu, tự phê bình và phê bình còn thiếu khách quan, gò ép, còn lẫn lộn giữa nội
dung chống kẻ thù giai cấp với kẻ thù dân tộc, còn quay về quá khứ truy xét lai
lịch, tác phong sinh hoạt cá nhân làm che khuất những khuyết điểm, sai lầm
thuộc về nguyên tắc.
Sau chỉnh Đảng, chỉnh quân lực lượng vũ trang toàn Huyện bước vào thực hiện
cuộc chỉnh huấn trong quân đội gọi tắt là: “ Rèn cán, chỉnh quân” các đại đội
363, đại đội 300 và dân quân, du kích đã tổ chức lại lực lượng đảm bảo có đủ
quân số đánh địch tại chổ và thay phiên nhau ra vùng du kích, vùng tự do tham
gia chỉnh huấn.
Sau các đợt sinh hoạt chính trị chỉnh Đảng, chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và chiến
sĩ, du kích trở về địa phương, đến từng tổ chức quần chúng cứu quốc, từng hộ
gia đình tuyên truyền, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, tổ chức lực lượng
đánh địch. Những hành động đó không chỉ nhanh chóng củng cố niềm tin trong nhân
dân, kịp thời khôi phục, củng cố lại cơ sở bị tan vở do địch đánh phá mà còn
xây dựng được nhiều cơ sở mới ở những nơi vốn trước đây là vùng trắng của ta.
Tại thôn vùng công giáo Phúc Tự, Sen Bàng, Vạn Lộc vốn là “vùng trắng” nay đã
xây dựng được cơ sở đảm bảo nối dài thế trận chiến đấu liên hoàn giữa vùng địch
tạm chiến đến các vùng du kích, vùng tự do.
Bước vào Đông-Xuân 1953-1954, lực lượng ta trên các chiến trường trong toàn
quốc đã có bước phát triển lớn mạnh toàn diện. Quân và dân ta đã chủ động tấn
công địch trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa- xã
hội. Tại Quảng Bình, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Liên khu ủy IV, Tỉnh ủy, Ủy
ban kháng chiến hành chính tỉnh đã tập trung lãnh đạo mọi hoạt động của công
cuộc kháng chiến, đã đưa phong trào chiến tranh nhân dân tiến lên những bước
phát triển mới. Lực lượng vũ trang phát triển mạnh cả ba thứ quân bộ đội chủ
lực tỉnh, bộ đội địa phương huyện và dân quân, du kích; trình độ tổ chức và kỷ
thuật tác chiến trong chiến đấu ngày càng phát triển. vai trò lãnh đạo của Đảng
trong lực lượng vũ trang được coi trọng.
Để đảm bảo tốt công tác trong vùng địch hậu, ngày 1-11-1953, Liên khu ủy và Bộ
tư lệnh Liên khu IV mở hội nghị cán bộ địch hậu ba tỉnh Bình-Trị-Thiên. Hội
nghị đã đề ra nhiệm vụ, phương châm công tác tại các vùng địch tạm chiếm: “ Đẩy
mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch, tích cực chống càn quét và bình
định, tích cực củng cố căn cứ du kích. Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở
đồng bằng, đánh mạnh trên các tuyến đường giao thông, phối hợp chặt chẽ với các
chiến trường chính. Tăng cường xây dựng các đơn vị tình nguyện, phối hợp giúp
đở bạn về mọi mặt ở Trung Lào, xây dựng các đơn vị quân giãi phóng và phát
triển du kích, xây dựng căn cứ kháng chiến và cơ sở nhân dân, chuẩn bị cùng lực
lượng của bạn mở chiến dịch Trung Lào”.* ( Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình, tập 1 (1930-1954) sơ thảo tr279)
Sau hội nghị cán bộ địch hậu, được sự chỉ đạo cử Tỉnh đội và của huyện ủy Bố
Trạch, các Chi ủy, chi bộ Đảng trong lực lượng vũ trang đã tổ chức quán triệt,
học tập trong toàn lực lượng xác định rõ nhiệm vụ trong vùng địch hậu, xem đây
là một nhiệm vụ không kém phần quan trong trong việc đánh bại các âm mưu, thủ
đoạn của địch cũng như việc xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng đảm bảo
cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kháng chiến đề ra. Đồng thời cũng xác
định rõ nhiệm vụ quốc tế, sẵn sàng giúp bạn Lào đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
Chính từ đó làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yên tâm, tin tưởng hơn
trong việc nhận và thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Để tạo thế cùng cả nước tiến hành cuộc tổng tiến công chiến lược trong Đông-Xuân
1953-1954, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Liên khu IV phối hợp
cùng quân và dân nước bạn Lào mở chiến dịch Trung Lào.
Cuối năm 1953, Liên khu ủy, Phân khu Bình-Trị-Thiên và Tỉnh ủy Quảng Bình giao
nhiệm vụ cho quân và dân các huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa, Quảng Trạch chuẩn bị
địa bàn và lực lượng phục vụ chiến dịch Trung Lào. Thực hiện kế hoạch được
giao, Huyện ủy Bố Trạch đã tập trung mọi nổ lực vận động nhân dân, tổ chức lực
lượng sẵ sàng tham gia chiến dịch. Chi ủy, chi bộ và Ban chỉ huy Huyện đội bộ
đã nhanh chóng triển khai kế hoạch trong toàn lực lượng. Phần lớn cán bộ các
Ban trong cơ quan Huyện đội và chỉ huy các đại đội chiến đấu đi về các địa
phương tuyên truyền vận động thanh niên, hội viên các đoàn thể cứu quốc tham
gia vào các đội dân công, tham gia chuẩn bị kho tàng, vận động nhân dân tạo mọi
điều kiện thận lợi cho các đoàn dân công đi qua có nơi ăn, chốn ở phục vụ tốt
chiến dịch.
Tại xã Phúc Trạch, tuy có rất nhiều khó khăn nhưng nhân dân vẫn cố gắng xắp xếp
lại nơi ăn, chốn nghỉ, tập trung tu sửa đường giao thông, dựng hàng trăm lán
trại, kho tàng…Trung tuần tháng 11-1953, nhân dân xã Phúc Trạch đã đón hơn 4000
dân công và Thanh niên xung phong từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tỉnh vào phục vụ
chiến dịch.
Với tinh thần “ Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến dịch”, Ủy ban kháng
chiến hành chính huyện Bố Trạch ngoài việc tập trung lo chuẩn bị địa bàn đón
các đoàn dân công còn huy động hơn 600 cán bộ đảng viên, đoàn viên, thanh niên,
hội viên đoàn thể cứu quốc lên đường tham gia vào các đội dân công vận tải hàng
hóa. Hội đồng tuyển quân của Huyện đã tuyển chọn được 79 thanh niên bổ sung cho
các đơn vị bộ đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Trung Lào. Trong điều
kiện địch ngày đêm càn quét, lùng sục, đánh phá nhưng chỉ trong vòng 15 ngày
của đầu tháng 1-1954, nhân dân các thôn vùng tự do đã huy động được 60.663
kilogam thóc thuế nông nghiệp. Hội phụ nữ, Hội mẹ chiến sĩ các xã vùng tự do
vận động các mẹ, các chị xay, giã được 46.000 kilogam gạo kịp chuyển ra mặt
trận và các đoàn dân công đã vận chuyển gần 4.000 tần gạo từ Nghệ An, Hà Tỉnh
đưa vào cho chiến dịch.
Bước vào năm 1954, Trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của lực lượng kháng
chiến ở Bố Trạch, thực dân pháp ở Quảng Bình đã tổ chức hàng trăm cuộc hành
quân đánh phá vào các hệ thống giao thông liên lạc, kho tàng, các cơ sở kinh tế
của ta và tăng cường các cuộc hành quân bắt lính, bắn pháo vào làng..cưỡng ép
nhân dân ta tiếp tục lập các hội đồng hương chính..
Từ tháng 1 đến tháng 7-1954, quân Pháp tổ chức hàng trăm cuộc hành quân từ cấp
tiểu đội đến cấp tiểu đoàn đánh vào vùng du kích và một số nơi vùng tự do xã
Sơn Trạch; chúng tung gián điệp vào vùng tự do và cơ sở kháng chiến để theo dõi
và thăm dò các hoạt động của ta. Chúng còn lôi kéo nhiều tên phản động theo đạo
Thiên chúa ở Vạn Lộc hoạt động chống phá kháng chiến, gây mất đoàn kết giữa
đồng bào Lương và đồng bào công giáo; Chúng còn cho bắn đại bác vào làng, ngoài
đồng ruộng giết hại trâu bò, phá hoại mùa màng. Chúng thường xuyên cho máy bay
bay ra vùng tự do trinh sát, ném bom, thả truyền đơn.
Trước những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, được sự chỉ đạo của Huyện ủy, các tổ
chức Đảng trong lực lượng vũ trang huyện đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền
các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nêu cao cảnh
giác, thực hiện tốt phong trào “ Ba không” không nghe, không biết, không thấy
bất hợp tác với địch, trong công tác, sinh hoạt luôn đề cao công tác phòng gian
bảo mật và xem đây là một tiêu chuẩn để bình bầu, xét duyệt khen thưởng trong
đánh giá thành tích. Từ phong trào này, quần chúng kịp thời phát hiện nhiều
người lạ, nhiều tên gián điệp, nội gián báo cho các tổ công an đặc biệt bắt giữ
và có tên đã bị tòa án quân sự Liên khu IV mở phiên tòa xét xử và tuyên án tử
hình.
Trong thời gian này phối hợp với chiến dịch Trung Lào và các chiến trường khác
trong toàn quốc, quân và dân Bố Trạch một mặt vừa trực tiếp tham gia phục vụ
chiến dịch, mặt khác đẩy mạnh các hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị buộc
địch phải tập trung quân đối phó, tạo điều kiện cho các đơn vị dân công, bộ đội
tham gia chiến dịch. Tại các vùng sau lưng địch, bộ đội 363 và dân quân du kích
tiếp tục tăng cường các hoạt động tân công, bao vây, chặn đánh phá tan nhiều âm
mưu của địch.
Đầu tháng 1-1954, đại đội 363 và du kích các xã Hải Trạch, Nam Trạch, Bắc Trạch
đã bao vây các đồn Lý Hòa, Vạn Lộc, Âm Tiến, Chánh Hòa, Cồn Trụm, Hoàn Lão,
Thanh khê…tiêu diệt 63 tên trong đó có một quan hai Pháp, một tiểu đoàn trưởng
ngụy, phá hủy 2 xe quân sự. Ngày 25-2 đến 1-3-1954, bộ đội 363 và du kích Thanh
Khê chống càn, diệt 21 tên, phá hủy 2 xe quân sự. Ngày 11-3-1954, bộ đội 363 và
du kích Thọ Lộc chặn đánh địch đi càn, diệt 80 tên. Điển hình là trận đánh Cửa
Khâu (ngày 9-3) do đại đội phó 363 Phan Văn Liễm và Phan Văn Truyền trungđội
trưởng trung đội 2 chỉ huy có du kích Hoàn Phúc phối hợp. Từ chổ bị động chuyển
thành chủ động, từ phục kích chuyển sang vận động chiến, với lực lượng ít hơn
địch nhưng bộ đội và du kích phối hợp chặt chẽ, mưu trí, dũng cảm chiến đấu đã
tiêu diệt một đại đội và đánh thiệt hại một đại đội khác, thu hàng trăm súng và
điện đài thông tin liên lạc. Sau trận đánh thắng lợi lớn này, hai đồng chí Phan
Văn Liễm, Phan Văn Truyền và đơn vị được tặng thưởng Huân chương chiến công
hạng ba; đồng chí Phan Văn Truyền được đề bạt từ trung đội trưởng lên đại đội
phó.
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, các cuộc đấu tranh chống bắt lính phát triển
mạnh. Chỉ tính từ ngày 9 đến ngày 13-1-1954, đã có 6 cuộc đấu tranh lớn chống
bắt lính của nhân dân các xã dọc đường quốc lộ 1A. Ngày 9-1-1954, phụ nữ các
thôn Lý Hòa, Đồng Cao phối hợp đấu tranh chống một đại đội địch về làng Đồng
Cao bắt lính, buộc chúng phải thả 31 thanh niên trong số 50 người chúng bắt
được.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiến cong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ và hưởng ứng cuộc phát động “ Tuần lễ
đánh mạnh” của Bộ tư lệnh Liên khu IV, ngày 29-3-1954, bộ đội 363 và du kích
Hoàn Phúc phối hợp chống càn tiêu diệt 91 tên địch, bắt sống 5 tên, bắn bị
thương 7 tên, thu một số vũ khí. Chỉ tính từ ngày 10-3 đến 20-4-1954, bộ đội
363 và dân quân các địa phương đã phối hợp và độc lập chiến đấu 61 trận, vây
lấn đồn địch 27 lần, tổ chức địch vận gọi loa vào đồn 50 lần, đánh phá giao
thông 21 lần, tiêu diệt 17 tên địch, cắt đứt 3.150 mét dây điện làm gián đoạn
các hoạt động thông tin liên lạc của địch.
Đi đôi với hoạt động đánh địch, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở
vùng tạm bị chiếm cũng diễn ra mạnh mẽ. Hàng trăm cuộc đấu tranh chống bắt
lính, đấu tranh chống cướp phá, chống không được bắn pháo vào làng
liên tiếp diễn ra. Tại
thôn Lý Nhân Nam, hàng trăm ngư dân của 157 thuyền đánh cá đấu
tranh không nộp thuế thuyền sách. Tại Hải Trạch, bon địch ở đồn Đồng Bơi đã nổ
súng bắn chết một chi phụ nữ người Thuận Phú đi chợ, lập tức hàng trăm chị em
phụ nữ đang họp chợ Lý Hòa đã kéo lên đồn Đồng Bơi đòi bồi thường, bọn địch
phải nhận tội và chấp nhận đền bù cho người bị hại. Tại xã Tây Trạch, hàng trăm
nông dân đã kiên trì bao vây bọn địch về bắt lính trong nhiều ngày, buộc chúng
phải thả 280 thanh niên.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, quân và dân Bố Trạch vẫn thực hiện tốt hai
nhiệm vụ “ Kháng chiến và kiến quốc”, một mặt vừa tổ chức chiến đấu đánh
bại những âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch, mặt khác động viên nhau vượt qua mọi
gian khổ, hy sinh đẩy mạnh các hoạt động lao động, sản xuất phát triển kinh tế.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954, trong điều kiện địch ngày đêm cho quân lùng sục, càn
quét, bắt bớ, bắn đại bác vào làng, ngoài đồng ruộng buộc mọi người không được
đi lại làm ăn, sản xuất với mục đích ép dân đi bầu cử hội đồng hương chính và
tiện cho việc bắt lính. Tuy vậy, được bộ đội, dân quân du kích bảo vệ, nhân dân
các địa phương bằng nhiều biện pháp như tổ chức đấu tranh chống lại các hành
động của địch, tranh thủ sau các cuộc càn quét, bắn phá để ra đồng sản xuất.
Trong vụ chiêm-xuân 1953-1954, nông dân toàn Huyện đã cấy hết diện tích và vỡ
hoang được 123 mẫu ruộng ở Hói Đá, Đồng Ran, Hà Môn…Ủy ban kháng chiến hành
chính các xã Sơn Trạch, Hải Trạch, Trung Trạch, Bắc Trạch và Tây Trạch đã huy
động hàng ngàn lao động đắp đê ngăn mặn ở Đồng Cao, Thanh Ba, Ba Đề, Cao Lao
Hạ. Chỉ riêng xã Sơn Trạch đã huy động được 1927 ngày công đắp được 11 đập, 4
bờ vùng giữ nước, tưới cho 896 mẫu ruộng và còn huy động 132 ngày công nạo vét
kênh mương phóng thủy cứu được 265 mẫu lúa khỏi bị ngập úng. Ngoài việc đẩy
mạnh sản xuất trồng lúa, nông dân đẩy mạnh việc phát triển trồng khoai, sắn,
ngô, đậu và các loại rau, bầu, bí…Chính từ việc thấu hiểu đường lối kháng chiến
“ Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Đảng và chủ trương “ Bám đất, bám làng”
kháng chiến của Huyện ủy, quân và dân Bố Trạch đã tạo dựng được những cơ sở
nhất định về kinh tế làm chổ dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến tại chỗ ngày
càng phát triển vững chắc và giành được nhiều thắng lợi to lớn trên tất cả các
mặt trận.
Trên chiến trường chính, sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, ngày 7-5-1954
chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Hướng về mặt trận Điện Biên Phủ và về Hội nghị Giơnevơ, Huyện ủy Bố Trạch đã tổ
chức cho hơn 52.733 người nghe phổ biến tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ và cuộc
đấu tranh trên bàn Hội nghị Giơnevơ, đồng thời vận động nhân dân đẩy mạnh các
hoạt động đấu tranh với địch nhằm nhanh chóng đẩy địch vào con đường thất bại.
Ngày 2-7-1954, hơn 6.000 người người từ các xã Hải Trạch, Trung Trạch, Tây
Trạch, Nam Trạch đang họp chợ Đón đã bãi thị kéo về đồn Hoàn Lão đấu tranh đòi
địch thả chồng con, người thân về cho họ.
Trước thắng lợi to
lớn của bộ đội ta ở Điện Biên Phủ và trên chiến trường Quảng Bình, quân Pháp ở
Bố Trạch vô cùng hoang mang, lo sợ. Ngày 20-71954, địch buộc phải rút các đồn
lẻ ở xa các trục đường giao thông, xa nguồn tiếp tế về co cụm trong các đồn Thọ
Lộc, Âm Tiến, Thanh Khê, Lý Hòa, Chánh Hòa.
Trên đà thắng
lợi, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Tư lệnh Liên khu IV dốc
mọi lực lượng mở chiến dịch, trước mắt là tiêu diệt mợt bộ phận sinh lực địch,
giãi phóng Quảng Bình, Vĩnh Linh. Nếu chiến dịch phát triển thuận lợi, Bộ sẽ
tăng cường để giãi phóng toàn bộ Bình-Trị-Thiên. Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên
khu ủy IV gấp rút chuẩn bị lực lượng, lương thực, thực phẩm đảm bảo cho chiến
dịch thắng lợi. Bộ Tư lệnh Liên khu sử dụng trung đoàn 270, trung đoàn 95 (
điều từ Phủ Lý về) hai tiểu đoàn 195 ( Nghệ An) và 392 ( Hà Tỉnh) hành quân vào
Quảng Bình phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh, các huyện và dân quân du kích
chuẩn bị mở chiến dịch. Trong khi quân và dân Quảng Bình chuẩn bị cho một trận
đánh lớn thì ngày 20-7-1954, Hiệp địng Giơnevơ được ký kết, chiến dịch giãi
phóng Quảng Bình, Vĩnh Linh sắp được thực hiện phải dừng lại.
Hiệp
định Giơnevơ đã được ký kết nhưng trên địa bà huyện Bố Trạch vẫn chưa im tiếng
súng. Lơi dụng các điều khoản trong Hiệp định Giơnevơ, quân pháp ở Bố Trạch giở
mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc chiến thắng của ta, nói xấu kháng chiến,
nói xấu Việt Minh, noias xấu Chính phủ Cụ Hồ. Chúng dù ng mọi thủ
đoạn xúi dục nhân dân chống lại cách mạng, khủng bố, bắt ép đồng bào theo đạo
Thiên chúa đi theo chúng vào Nam. Ngày 26-7-1954, quân Pháp cho lính bao vây
thôn công giáo Vạn Lộc, đốt cháy một lúc 130 ngôi nhà. Chúng cho máy bay ném
bom na pan xuống thôn công giáo Thanh Hà, đốt cháy 100 ngôi nhà. Bằng nhiều thủ
đoạn lừa bịp, kể cả hành động quân sự thực dân Pháp đã dụ dổ, lừa gạt, cưởng ép
khá đông giáo daanowr các thôn Chánh Hòa, Phúc Tự, Vạn Lộc, Huỳnh Trung, Bồ
Khê, La Mố, Yên Giang, Sen Bàng từ bỏ quê hương, xứ sở đi theo chúng vào Nam.
Thi hành Hiệp định Giơnevơ, từ những ngày đầu tháng 8-1954, quân đội Pháp bắt
đầu thực hiện kế hoạch rút quân khỏi Bố Trạch. Cuộc rút quân của Pháp được chia
thành hai đợt: Đợt một từ ngày 1-8 đến ngày 6-8-1954, chúng rút quân ở đồn Âm
Tiến, Vạn Lộc, Cồn Trụm, Lý Hòa về đồn Hoàn Lão. Đợt hai ngày 11-8-1954, quân
Pháp rút khỏi đồn Hoàn Lão và Chánh Hòa vào Đồng Hới. Ngày 17-8-1954, đơn vị
lính Pháp cuối cùng ở Bố Trạch đóng ở đồn Thanh Khê rút vào Đồng Hới.
Sau 8 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng oanh liệt, ngày
11-8-1954, quê hương Bố Trạch hoàn toàn giãi phóng. Theo quy định của Liên khu
ủy IV, đại đội 363 bộ đội địa phương Huyện và dân quân du kích theo kế hoạch đã
nhanh chóng triển khai lực lượng tiếp quản huyện lỵ Hoàn Lão, Thanh Khê và các
vị trí quan trọng khác trong toàn huyện. Để thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp quản
vùng mới giãi phóng, Chi ủy, chi bộ Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ, các đại
đội bộ đội địa phương huyện và dân quân du kích các xã khẩn trương ổn định lực
lượng, tiến hành cho bộ đội, dân quân du kích học tập, quán triệt đầy đủ mục
đich, yêu cầu và nhiệm vụ mới. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải bám sát dân,
bám sát cơ sở nắm chắc các diễn biến tư tưởng của cán bộ đảng viên và nhân dân,
làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng sớm ổn định cuộc sống, luôn
nêu cao tinh thần cảnh giác kịp thời phát hiện, tố giác những người có hành vi,
việc làn chống phá cách mạng, tích cực tham gia vào các hoạt động đoàn thể, tập
trung xây dựng chính quyền vững mạnh.
Trãi qua
8 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Bố
Trạch đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban
kháng chiến hành chính và của Tỉnh đội Quảng Bình mà trực tiếp là của Huyện ủy,
Ủy ban kháng chiến hành chính huyện và sự hổ trợ, phối hợp cùng chiến đấu của
lực lượng bộ đội chủ lực Liên khu, bộ đội chủ lực tỉnh. Tổ chức Đảng và lực
lượng vũ trang Huyện Bố Trạch đã biết “ Bám đất, bám dân” xây dựng và phát
triển lực lượng vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh chiến đấu anh dũng. Trong
chiến đấu các đơn vị bộ đội địa phương đến lực lượng dân quân du kích đã kiên
trì thực hiện phương châm tác chiến du kích chiến tranh, xây dựng làng xã chiến
đấu và trong từng điều kiện cụ thể mỗi trận đánh để chuyển sang lối đánh vận
động chiến nhằm đạt được hiệu suất chiến đấu cao nhất. Nhiều trận đánh lớn ở Cự
Nẫm, Lòi Pheo, Ba Dốc, Hoàn Lão-Vạn Lộc, Sen Bàng mãi mãi là những trang sử
vàng của lực lượng vũ trang Huyện Bố Trạch.
Cung với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của lực lượng bộ đội địa phương và
dân quân du kích, hệ thống tổ chức Đảng và công tác xây dựng Đảng trong lực
lượng vũ trang được hình thành và đi vào hoạt động ngày càng có nề nếp đảm bảo
nguyên tắc Đảng. Từ tổ Đảng, Chi bộ Đảng sinh hoạt ghép với Chi bộ Đảng cơ quan
Huyện ủy, tổ chức Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ, trong các đại đội chiến đấu
phát triển thành chi bộ Đảng độc lập trực thuộc Huyện ủy. Có thể nói việc thành
lập được chi bộ Đảng trong cơ quan Huyện đội bộ đánh dấu bước trưởng thành của
tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang huyện. Chính từ đây lực lượng vũ trang
huyện có được một một cơ quan làm công tác tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban kháng
chiến hành chính huyện về công tác Đảng, công tác chính trị, công tác xây dựng
lực lượng và phương án chiến đấu của lực lượng vũ trang; Đồng thời cũng từ đây
lực lượng vũ trang toàn huyện có được một tổ chức lãnh đạo thống nhất cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ và phương án đánh địch. Bước phát triển
quan trọng này khẳng định vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối
với lực lượng vũ trang; Đồng thời nói lên sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tổ
chức Đảng trong lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, đây là tiền đề, là cơ sở để cho công tác xây dựng Đảng trong các giai
đoạn cách mạng tiếp sau đó ngày càng đi vào hoàn thiện để tạo cho quân đội và
các lực lượng vũ trang có được sức mạnh vô địch đánh bại các kẻ thù sừng sỏ
nhất thế giới.
PHẦN
THỨ HAI
ĐẢNG BỘ QUÂN SỰ HUYỆN BỐ TRẠCH LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC ( 8-1954-4-1975).
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về
chiến tranh Đông dương được ký kết, Pháp và các nước tham gia Hội nghị đã ký
kết tuyên bố chung công nhận: độc lập, chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ của ba nước Việt Nam-Lào-Camphuchia.
Song do tình hình thế giới
lúc đó có nhiều phức tạp và do mối tương quan lực lượng giữa ta địch vì vậy dẫn
đến nước ta tạm thời bị làm hai miền. Vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến chia cắt
tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam. Miền Bắc hoàn toàn giãi phóng và đi lên Chủ
nghĩa xã hội, ở miền Nam đế quốc Mỹ nhảy vào hất cẳng Pháp, dựng nên chính
quyền Ngô Đình Diệm và áp đặt chế độ thực dân mới. Cách mạng Việt Nam từ đây
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng miền Bắc đi lên Chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giãi phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
Bố trạch là một
huyện của tỉnh Quảng Bình, địa bà cận kề vùng giới tuyến, cầu nối miền Bắc với
miền Nam và vùng Trung-Hạ Lào. Nhiệm vụ mới của cách mạng đặt ra cho cho Đảng
bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Bố Trạch hết sức nặng nề và đầy thử thách.
Trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, huyện Bố Trạch sớm trở thành một trong
những chiến trường ác liệt trên đất Quảng Bình. Với trọng trách là lực lượng
quyết định thắng lợi trên chiến trường, lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quân Ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng mà trực tiếp là của Ban chấp hành Đảng bộ huyện và của Tỉnh đội
Quảng Bình. Lực lượng vũ trang Bố Trạch triệt để thực hiện “ Bám dân, bám làng”
vận dụng những bài học kinh nghiệm công tác, kinh nghiệm chiến đấu trong chống
Pháp và qua thực tiển chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của máy bay, tàu
chiến Mỹ đã sáng tạo nhiều cách đánh hay, bắn giỏi với một ý chí chiến đấu
“quyết chiến, quyết thắng” hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân
giao cho.
CHƯƠNG
IV
LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG
VỮNG CHẮC, CŨNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG QUỐC PHÒNG, SẴN SÀNG ĐỐI PHÓ
VỚI ÂM MƯU MỞ RỘNG CHIẾN TRANH ĐÁNH PHÁ MIỀM BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẾ QUỐC
MỸ ( 8-1954 – 7-1964)
CỦNG CỐ TỔ CHỨC, ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO TƯ TƯỞNG, GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, ĐỘNG
VIÊN LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG CÙNG TOÀN DÂN RA SỨC HÀN GẮN VẾT THƯƠNG
CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC SẢN XUẤT, XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Vào những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ, thấy trước nguy cơ bại
trận của quân đội Pháp ở Việt Nam và khi vấn đề Việt Nam và Đông Dương đang nằm trên bàn Hội nghị Giơ ne vơ. Để chuẩn bị cho một âm mưu lâu dài xâm lược
nước ta, Tổng
thống Mỹ Aixenhao đã lớn tiếng hô hào sẽ tổ chức một cuộc di cư có kế hoạch
người Việt Nam từ Bắc vào Nam nếu Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết.
Để thực hiện âm mưu đó, Mỹ đã lên kế hoạch đưa Hồng y giáo chủ Spenman, giám
mục Hácnét với tên trùm mật vụ CIA E.Lênxđên đến Sài Gòn phối hợp với bọn phản
động đội lốt giáo hội công giáo Việt Nam thực hiện chiến dịch dụ dỗ, cưởng ép
đồng bào công giáo di cư vào Nam.
Trước những âm mưu thâm độc của Pháp-Mỹ, ngày 17-7-1954, Ban chấp hành Trung
ương Đảng ( Khóa II) đã họp Hội nghị lần thứ 6 đề ra phương châm, sách lược đấu
tranh trước mắt là: Tranh thủ củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập dân chủ trong toàn quốc, tăng cường lực lượng quân sự, xây dựng
Quân đội nhân dân hùng mạnh thích ứng với yêu cầu của tình hình mới. Tiếp
đó, ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi cán bộ, đồng bào và chiến sĩ cả nước: “ Trung-Nam-Bắc đều là bờ
cỏi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được
giãi phóng...”* ( Hồ Chí Minh toàn tập, nxbst,H 1986, tập 7, tr 8). Nhằm
quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 và lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, ngày 22-7-1954, Tổng cục Chính trị ra chỉ thị số 110/CT-H về: “
Tăng cường giáo dục, lãnh đạo bộ đội chấp hành nhiệm vụ mới, chính sách mới của
Đảng và Chính phủ”.
Thực
hiện kế hoạch của Tỉnh ủy và của Huyện ủy Bố
trạch, cùng với các tổ chức Đảng cơ sở, Các chi bộ Đảng trong lực lượng vũ
trang đã tổ chức một đợt tuyên truyền sâu rộng từ ngày từ 27 đến 31-7-1954, trong toàn lực lượng vũ trang và trong nhân dân nơi đóng quân, nhằm
làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thấy được những thắng lợi to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ và
Hiệp địng Giơ ne vơ cũng như âm
mưu, thủ đoạn thâm độc của thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ và nhiệm vụ của Đảng bộ, nhân dân và của lực lượng vũ
trang trước tình hình
mới.
Để xác định rõ hơn nhiệm vụ mới đang đặt ra, đêm
31-7-1954, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị liên
tịch gồm tất cả cán bộ, công nhân, viên chức các Ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh
và huyện Bố Trạch, cán bộ trung đoàn 270 và bộ
đội đại đội 363 địa phương huyện, để nghe đồng chí Nguyễn Tư Thoan, phó Bí thư
tỉnh ủy nói về ý nghĩa thắng lợi và những vấn đề căn bản của Hiệp định Giơ ne
vơ, khó khăn, thuận lợi của tinh hình và nhiệm vụ, công tác trước mắt của mỗi
cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh.
Cùng với chỉ thị 110, ngày 3-8-1954, Tổng cục Chính trị tiếp tục ra chỉ thị số
113/CT-H về: Công tác Đảng, công tác chính trị, chỉ đạo lực lượng vũ trang toàn
quân, nhất là các đơn vị xa Trung ương thực hiện đúng Hiệp định Giơ ne vơ. Chỉ
thị xác định rõ: Cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị và cán bộ chính trị
bộ đội Bình- Trị-Thiên, Khu V, Nam Bộ, quân tình nguyện ở Miên và Lào phải trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo “ Chấp hành triệt để lệnh ngừng bắn, lệnh rút quân, làm
cho bộ đội giữ vững tổ chức, tuyệt đối đảm bảo được lực lượng. Tuyệt đối ngăn
cản việc khiêu khích, tự động, manh động, tư tưởng tự do chủ nghĩa; đề cao
nguyên tắc tính tổ chức, tính kỷ luật. Hết sức đề cao cảnh giác cách mạng, sáng
suốt đề phòng mọi âm mưu phá hoại của địch về cả mặt tuyên truyền xuyên tạc và
cả mặt tổ chức, làm cho cán bộ và chiến sĩ thi hành mệnh lệnh một cách nghiêm
túc và thận trọng. Ra sức làm công tác dân vận, dựa vào dân để bảo toàn mình,
giãi thích cho dân hiểu rõ đường lối đúng đắn của Trung ương Đảng và Hồ Chủ
tịch, cố gắng giúp đỡ dân theo khả năng của mình”*( Tổng cục chính trị- quá trình hình thành và phát triển,
tập2, quyển 1, nxb QĐND, H 1998, tr14,15).
Để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta, ngay sau khi Hiệp địng Giơ Ne Vơ được ký
kết, Đế quốc Mỹ được sự trợ giúp của Pháp đã tiến hành ột cuộc tuyên truyền dụ
dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáp di cư vào Nam.
Tại huyện Bố Trạch, Pháp-Mỹ đã bí mật sử dụng bọn tay sai, phản động tuyên
truyền xuyên tạc hiệp định Giơ ne vơ, tung ra nhiều luận điệu nói xấu Chính phủ
Cụ Hồ. Chúng tung tin bịa đặt “ Cính phủ Việt Nam cấm đạo”, “ Pháp và Việt Minh
đã chia cắt Việt Nam”, “ Chúa đã vào Nam”, “ Mỹ sẽ ném bom iền Bắc”, “ Giáo dân
ở lại miền Bắc sẽ bị rút phép thông công”, “ Nếu muốn linh hồn được lên đất
thánh, mọi người phải mau theo chúa vào Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ”, “ Ở lại
với cộng sản sẽ mất phần hồn”. Trong các thủ đoạn màMỹ-Pháp và bọn phản động
tay sai sử dụng, thủ đoạn thâm hiểm và có hiệu quả nhất là lợi dụng những sai
lầm của Chính quyền, của cán bộ, đảng viên để nói rằng “ ở lại miền Bắc, những
người đã từng hợp tác với đối phương sẽ bị trả thù”. Cùng với những hoạt động
tâm lý, Mỹ-Pháp cho máy bay ném bom, bắn phá tàn bạo vapf các làng công giáo
Sen Bàng, Vạn Lộc, Thanh Hà, La Mố, Yên Giang, Huỳnh Trung, Chánh Hòa, Phúc Tự…
đốt cháy nhà cửa, tàn phá ruuoojng vườn để đồng bào không có nơi ăn, chốn ở,
ruộng vườn để sản xuất buộc phải ra đi theo chúng vào Nam. Thủ đoạn tâm lý và
quân sự đã gây nên một tâm lý hoang mang, lo sợ trong dân chúng vùng công giáo,
đậto nên một làn sống bỏ làng mạc, quê hưởng di cư vào Nam. Ở Sen Bàng chỉ còn
có 70 người ở lại, các làng công giáo khác còn vài hộ gia đình quá khó khăn
đành ở lại. Với mưu đồ này, Mỹ-Pháp muốn đạt được mục đích là làm giảm lòng tin
và ly gián mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, gây nên sự xáo trộn lớn trong xã
hội, gây mất đoàn kết trong nội bộ ta; qua đó làm cho lòng người ly gián , nội
bộ lục đục, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc mà Đảng ta dày công xây dựng.
Cùng việc dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam, trên tuyến biên
giới Việt-Lào, Mỹ-Pháp cũng tìm cách phá hoại. Tại xã Thượng Trạch, bọn phản
động lưu vong người Việt móc nối với bọn phản động trong nước tìm cách dụ dỗ,
lôi kéo đồng bào dân tộc ở bản Cà Roong vượt biên sang Lào làm ăn sinh sống đợi
ngày quay lại Việt Nam chống phá cách mạng. Ở nội địa, bọn ngụy quân, ngụy
quyền tay sai của Pháp được ta phóng thích cho về quê làm ăn, sinh sống
đã lợi dụng chính saschkhoan hồng của Đảng và nhà nước ta, chúng tìm cách nói
xấu lãnh tụ, nói xấu chính quyền, nói xấu cán bộ. Nhiều nơi chúng công khai
liên kết nhau, tìm cách chống phá cách mạng. Tại Trung Trạch, Hải Trạch, Bắc
Trạch, mmoojt số tên hội tề củ lén lút mua bạc Đông Dương về cất dấu, chờ ngày
Pháp quay lại để tiêu thụ. Bọn tàn quân Ngụy ở làng Vạn Lộc, Đồng Cao ( Hải
Trạch) cấu kết với nhau cấm người nhà và tìm cách cản trở người hàng xóm, không
cho họ đi họp làng, họp xóm. Ở những làng công giáo còn có giáo dân ở lại, có
thái độ hoài nghi chính sách tự do, tín ngưởng của Đảng và nhà nước. Ở Hoàn
Phúc, Hòa Duyệt một số đồng bào lương có những ấn tượng không tốt và tỏ ra căm
ghét đồng bào công giáo, cho rằng đồng bào công giáo theo Tây phản lại cách
mạng, được Tây cho nhiều tiền nên coa những việc là, hành động miễn cưỡng trong
việc giúp đỡ các gia điình công giáo thóc gạo, làm lại nhà cửa do bị bom địch
phá hủy.
Tuy công tác tuyên truyền, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống lại các
âm mưu, thủ đoạn dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam, bước đầu có
hiệu quả nhưng do ta koong lường hết được bản chất của sự việc nên không ngăn
chặt triệt để âm mưu, thủ đoạn của địch nên đã để một phần đông đồng bào theo
địch ra đi di cư.
Trước những kết quả còn hạn chế trong việc đấu tranh, vận động chống cưỡng ép
di cư, ngày 6-8-1954, Tỉnh ủy mở Hội nghị bất thường, đánh giá tình hình sau
khi thực hiện Hiệp định Giơnevơ. Hội nghị chỉ rõ: Lãnh đạo không nắm vững diễn
biến phức tạp của tình hình; chưa thấy hết âm mưu, thủ đoạn của địch trong việc
dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam và thiếu cảnh giác nên định chủ trương
thiếu cụ thể; công tác giáo vận yếu, trong lúc địch tìm mọi thủ đoạn ra sức
cưỡng ép, dụ dỗ đồng bào di cư thì công tác vận động, thuyết phục quần chúng
của ta quá kém, kế hoạch không cụ thể. Từ đặc điểm tình hình đó, để kịp thời
chuyển hướng đấu tranh . Hội nghị Tỉnh ủy đề ra một số nhiệm vụ là: Cần phải
tiến hành đoàn kết mọi tầng lớp quần chúng để chống lại mọi âm mưu dụ dỗ, cưỡng
ép dân vào vùng tạm chiếm đóng của địch; Lãnh đạo quần chúng đấu tranh, buộc
địch phải thi hành hiệp định Giơ ne vơ. Tổ chức lãnh đạo học tập tình hình,
nhiệm vụ mới làm cho cán bộ, đảng viên tin tưởng và tạo sự nhất trí trong nội
bộ để thực hiện thắng lợi mọi mặt công tác.
Thưc hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Bình và của huyện ủy Bố Trạch,
Chi ủy chi bộ Huyện đội đã chỉ đạo mở cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng trong
toàn lực lượng từ cơ quan quân sự huyện đến đại đội bộ đội địa phương và các xã
đội, từ nội bộ trong Đảng đến quần chúng. Đợt sinh hoạt được triển khai hết sức
khẩn trương, tập trung vào công tác tư tưởng, chính trị đó là làm cho cán bộ,
đảng viên và chiến sĩ nhận thức rõ thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Pháp đặc biệt là chiến thắng Đện Biên Phủ và thắng lợi
trong Hội nghị Giơ ne vơ; đồng thời làm rõ thất bại nặng nề của thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ cũng như âm mưu, dã tâm chia cắt đất nước ta chuẩn bị cho một
cuộc chiến tranh xâm lược mới kiểu Mỹ. Qua đó xác định rõ nhiệm vụ sắp tới của
lực lượng vũ trang là cùng toàn Đảng, toàn dân đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai hết sực nặng nề, đầy thử thách, trước mắt tập trung tham gia cùng
Đảng bộ và nhân dân toàn huyện đấu tranh làm thất bại âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép
đồng bào công giáo di cư vào Nam. Đợt sinh hoạt chính trị lần này xác định rõ
đối tượng tác chiến của lực lượng vũ trang ta là quân đội Mỹ, đây là một kẻ thù
hoàn toàn mới mẽ, đầy tiềm lực kinh tế và quốc phòng, lắm mưu, nhiều mẹo, hiếu
chiến và vô cùng thâm độc. Đợt sinh hoạt chính trị đã kịp thời làm ổn định tình
hình chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên, nhân dân và chiến sĩ ta sau ngày
miền Bắc hoàn toàn giãi phóng, ngăn chặn những luồng tư tưởng xã hơi, tự kiêu,
tự mãn…đồng thời củng cố niềm tin và xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của mỗi
tổ chức, mỗi lực lượng và của mỗi người trước nhiệm vụ mới của cách mạng đang
đặt ra. Đặc biệt đối với lực lượng vũ trang, qua đợt sinh hoạt chính trị này ý
chí và quyết tâm hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao cho được nâng
cao thêm một bước. Tất cả lực lượng vũ trang Huyện đều thể hiện quyết tâm thi
hành mệnh lệnh một cách nghiêm túc, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
vận động quần chúng nhân dân chấp hành và thực hiện đầy đủ các chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước. Tuy vậy trong quá trình triển khai thực hiện
cũng với tình hình chung, lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch vẫn mắc một số hạn
chế như đánh giá của Hội nghị Tỉnh ủy bất thường ngày 6-8-1954 là: Lãnh đạo
không nắm vững diễn biến phức tạp của tình hình; chưa thấy hết âm mưu thủ đoạn
của địch trong việc chúng dụ dỗ, cưởng ép đồng bào di cư vào Nam và thiếu cảnh
giác nên định chủ trương thiếu cụ thể; công tác giáo vận yếu, trong lúc địch
tìm mọi thủ đoạn ra sức cưởng ép, dụ dỗ đồng bào di cư thì công tác vận động,
thuyết phục quần chúng của ta quá kém, kế hoạch không cụ thể. Tóm lại, khó khăn
lớn nhất là vùng Thiên chúa giáo chưa ổn định, đồng bào chưa tin tưởng vào chủ
trương, đường lối của Đảng và chính phủ, cán bộ chưa thâm nhập được vào trong
quần chúng. Hội nghị Tỉnh ủy cũng đề ra một số nhiệm vụ trước mắt là: Đoàn kết
mọi tầng lớp quần chúng để chống lại âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép dân vào vùng tạm
đóng quân của địch; lãnh đạo quần chúng đấu tranh, buộc địch thi hành nghiêm
chỉnh Hiệp định Giơ ne vơ; tổ chức lãnh đạo học tập tình hình nghiệm vụ mới,
làm cho cán bộ, đảng viên tin tưởng và tạo sự nhất trí cao trong nội bộ Đảng để
thực hiện thắng lợi mọi mặt công tác.
Do kịp thời rút kinh nghiệm và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nhiều
gia đình giáo dân ở làng Mỹ Hòa, Hói Tre ( Quảng Trạch) theo địch về ở đồn
Thanh khê đợi ngày vào Nam đã đấu tranh kirn quyết đòi quay trở lại quê nhà.
Tại làng Lý Hòa, Đồng Cao, Vạn Lộc ( Hải Trạch), Chánh Hòa, Phúc Lộc( Nam
Trạch), Hoàn Lão liên tiếp trong 2 ngày 27 và 29-1954, có hàng chục cuộc đấu
tranh của các gia đình ngụy binh được quần chúng hỗ trợ đã đấu tranh đòi thả
chồng con, người thân về nhà. Cuộc đấu tranh đã có tác động sâu rộng đến số
binh lính đang đợi ngày vào Nam, chỉ trong một ngày ở Vạn Lộc có 100 ngụy binh,
Đồng Cao có 80 ngụy binh, Chánh Hòa có 82 ngụy binh bỏ súng trở về với
gia đình.
Ngày 11-8-1954, tên lính viễn chinh Pháp cuối cùn rút khỏi khu vực Hoàn Lão,
huyện Bố Trạch hoàn toàn được giãi phóng. Đón chào quê hương sạch bóng quân
thù,thực hiện kế hoạch của tỉnh, ngay đêm 11-8, bộ đội đại đội 363 địa phương
vô tiếp quản Hoàn Lão; cũng lúc này Ủy ban kháng chiến hành chính huyện đã tổ
chức một cuộc mít tin lớn với trên 3000 người tham gia chào mừng chiến thắng và
nghe phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, cũng như âm mưu của
địch
Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã để lại trên đất Bố Trạch một hậu
quả hết sức nặng nề. Toàn Huyện có đến 9.426 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn,
hàng ngàn mẫu ruộng đất bị bỏ hoang, chỉ tính riêng thôn Hỷ Duyệt ( xã Hải
Trạch) đã có 600 mẫu ruộng hoang hóa. Toàn huyện có 2.442 con trâu, bò và 2.915
con lợn bị chúng cướp*( B/C số 36 của UBKCHC Quảng Bình giữi Văn
phòng phủ Chủ tịch ngày 19-4-1955). Toàn bộ đê ngăn mặn bị hư hỏng, hệ
thống cầu cống, đường giao thông bị phá hủy. Các tệ nạn xã hội cờ bạc, rượu
chè, ma chay đồng bóng…phát triển tràn lan. Cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp còn gây nên thiệt hại lớn về người, toàn Huyện có 1.876 người bị giết,
6.085 người bị bắt…Riêng với Đảng bộ huyện trong năm 1949 có 1.132 đảng viên
thì đã có 53 đảng viên hy sinh, 293 đảng viên bị bắt. Năm 1954, kết thúc cuộc
kháng chiến chống Pháp xâm lược, Đảng bộ Bố Trạch chỉ còn lại có 870 đảng viên.
Địch họa chưa khắc phục được, thiên tai dồn dập ập đến, cuối năm 1954, hạn hán
gay gắt, tháng 9 và 10 liên tiếp có ba cơ bão mạnh đổ bộ vào Quảng Bình gây nên
nhiều thiệt hại lớn về người và của, hàng ngàn mét đê ngăn mặn bị phá vỡ, hàng
trăm héc ta ruộng lúa bị ngập nước. Do hậu quả của chiến tranh và thiên tai đã
đưa đến cuối năm 1954 đầu năm 1955 nạn đói diễn ra khắp nơi. Trước tình hình
đó, ngày 21-12-1954 Tỉnh ủy đã họp quán triệt chỉ thị : Phfng chống đói của Ban
Bí thư Trung ương Đảng ( ngày 3-11-1954) và ra Nghị quyết về công tác Sản xuất
chống đói: “…Đẩy mạnh tương trợ, phục hồi sản xuất, chú ý giúp đỡ các gia đình
hiện đang đói rét. Phát động thi đua ngắn hạn, trồng thêm hoa màu mau ăn…”* (Quyết
nghị số 93/ QN-QB ngày 21-12-1954 của BCH Đảng bộ tỉnh Quảng Bình). Thực hiện
chủ trương của Huyện ủy, Chi ủy, Ban chỉ huy quân sự Huyện đội bộ đã tổ chức
quán triệt trong cán bộ, đảng viên và chiến sĩ chủ trương cứu đói chủa Tỉnh ủy,
đồng thời tổ chức nhiều đoàn công tác về các địa phương gặp nhiều khó khăn,
cùng ăn cùng ở, cùng sinh hoạt tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân đoàn
kết vượt qua khó khăn, trước mắt giúp đở nhau nhanh chóng tu sữa lại nhà cửa,
thu dọn vườn tược, đắp đê, khơi mương, tu sữa đường giao thông, làm vệ sinh
thôn xóm. Đồng thời tập trung lực lượng, mọi nổ lực đi vào sản xuất trồng các
loại khoai, đậu, rau, bầu bí kịp thời chống đói. Vận động hội viên, đoàn viên
và mọi người nêu cao tình làng, nghĩa đồng bào với tình cảm “ Lá lành đùm lá
rách”, “ Một miếng khi đói bằng một gói khi no” tương trợ, giúp đỡ nhau sớm
vượt qua khó khăn. Cùng với việc vận động đẩy mạnh sản xuất, cứu đói, các tổ
công tác thông qua các cuộc họp dân đã phổ biến và làm rõ chủ trương, chính
sách của Đảng tiếp tục cũng cố lòng tin đối với Đảng, đồng thời vạch trần những
âm mưu thâm độc của kẻ địch, nhờ vậy nhân dân càng nhận thức rõ hơn về kẻ thù
mới của dân tộc, về tình đoàn kết Lương- Giáo, xóa đi những mặc cảm trong quá
khứ cùng nhau chung ta xây dựng cuộc sống mới.
Quán triệt đầy đủ chủ trương chính sách của Đảng, đồng thời xã định rõ trách
nhiệm và nhiệm vụ của một đội quân vùa chiến đấu vừ công tác, ngay sau khi
ngùng tiếng súng, lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch đã nhanh chóng chuyển mọi
hoạt động sang thời bình, cùng Đảng bộ đẩy mạnh các vận động quần chúng sớm ổn
định đời sống, tăng cường khối đoàn kết toàn dân vượt qua những khó khăn của
ngày đầu hòa bình để bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
Đối với nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tê-xã hội. Ngày
7-9-1954, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết nêu rõ: “
Nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh
tế quốc dâ, then chốt là là phục hồi phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi
giao thông vận tải là công tác có ý nghĩa mở đường” * ( Văn kiện lịch sử
Đảng, lưu hành trong trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, H 1964, tr 14). Tiếp đó,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khóa II ) họp Hội nghị lần thứ 7 ( tháng
3-1955) và Hội nghị lần thứ 8 ( tháng 8-1955) nhận định: “ Muốn thống nhất nước
nhà điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Hội nghị quyết địng: “ Miền Bắc là
chổ đứng của ta, bất kể trong tình huống thế nào, miền Bắc cũng phải được củng
cố. Trong việc củng cố miền Bắc, công tác cải cách ruộng đất vẫ cùng là công
tác trọng tâm, nhưng công tác khôi phục kinh tế là công tác trọng yếu”. về công
tác lãnh đạo tư tưởng, củng cố Đảng, Hội nghị nhấn mạnh: “ Cần khắc phục hiện
tượng mệt mỏi, nghỉ ngơi, hòa bình hưởng lạc, bi quan, dao động hoặc mất cảnh
giác, đi đôi với tăng cường lãnh đạo tư tưởng,phải kiện toàn bộ máy các cấp ủy
Đảng và nhà nước…”* ( Những sự kiện lịch sử Đảng, tập IV ( 1954-1975) nxb
Thông tin lý luận H 1982, tr 30, 31).
Sau tháng 7-1954, hòa bình lập lại trên toàn miền Bắc, nhiệm vụ lịch sử của Ủy
ban kháng chiến hành chính đã kết thúc. Để đáp ứng tốt nhiệm vụ cách mạng trong
thời kỳ mới, thi hành quyết định của Hội đồng Chính phủ, tháng 11-1954, Ủy ban
kháng chiến hành chính các cấp của Huyện Bố Trạch được đổi thành Ủy ban hành
chính.
Tháng 10-1954, Tỉnh ủy Quảng Bình họp Hội nghị nghiên cứu Nghị quyết của
Bộ Chính trị ( tháng 9-1954). Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ chung của Đảng
bộ, quân và dân tỉnh ta từ năm 1954 đến 1957 là: “ Hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, tổ chức đời sống nhân
dân, chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới thực hiện vận động triệt để giảm tô, cải
cách ruộng đất và khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa có kế hoạch”
Thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Chi ủy, chi bộ
Huyện đội bộ Bố Trạch nhanh chóng triển khai quán triệt nhiệm vụ khắc phục hậu
quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế trong toàn lực lượng. Chấp hành
mệnh lệnh, nhiệm vụ được giao, cán bộ, chiến sĩ đại đội 363 bộ đội địa phương,
bộ đội tiểu đoàn 229 của tỉnh và dân quân du kích là lực lượng nồng cốt, không
quản nguy hiểm, dũng cảm đi đầu trong việc tháo gỡ bom, mìn hàng rào dây kẻm
gai xung quanh đồn bốt địch và những nơi địch gài lại trước khi rút quân. Nhân
dân các địa phương được sự hổ trợ của Bộ đôi, du kích đã huy động lực lượng san
lấp hố bom, hầm hào, thu dọn dây thép gai, phế liệu chiến tranh. Với sự nổ lực
của lực lượng vũ trang trong việc rà phá thu dọn bom mìn đã tạo điều kiện cho
nông dân các thôn Chánh Hòa, Sao Sa ( Nam Trạch), Thọ Lộc, Đồng Cao ( Hải
Trạch), thôn Phường Bún ( Trung Trạch) đã khai hoang được 18 mẫu rượng và 3 mẫu
đất hoang, đào đắp nạo vét được 8 Km kênh mương. Với tinh thần “ Ba quyết tâm”
không để một mảnh ruộng nào bị khô hạn, nước ứ; quyết không để một mương đập
nào hư trệ, quyết không để nước mặn tràn vào ruộng. Cán bộ, chiến sĩ bộ đội,
dân quân, du kích đêm, ngày lăn lộn ngoài đồng ruộng cùng nông dân đáp đê giữ
nước, đào giếng, vét ao, tu bổ lại mương đập đảm bảo đưa ruộng nước vào cày,
cấy theo kế hoạch. Được sự giúp đổ của ty công chánh về kỷ thuật, Ủy ban hành
chính Huyện đã huy động hàng trăm cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ tranh cùng hàng
trăm nông dân đào hói từ Cự Nẫm qua Hà Môn và đắp đập Hoàn Lão giữ nước. Với sự
nỗ lực của quân và dân toàn Huyện, năm 1955 đã phục hồi được 1.000 mẫu ruộng
hoang hóa, tăng vụ trên 200 mẫu. Trong nhiệm vụ ổn định đời sống, bộ đội, dân
quân du kích đã vào rừng khai thác gỗ, tranh, tre..giúp nhân dân xã Sơn Trạch
dựng lại hơn 300 ngôi nhà. Nhân dân các thôn Thuận Phú, Lý Hòa ( Hải Trạch) đã
trở về quê dựng lại nhà cửa, ổn định đời sống. Các ngành nghề rèn ở Mai Hồng,
dệt thao, đũi ở Đồng Cao, Cao Lao; nghề trồng mía, nấu đường đọi, đường
chén..oqr Chánh Hòa; nghề làm nước mắm, đóng thuyền ở Đức Trạch, Lý Hòa từng
bước được khôi phục đi vào sản xuất làm ra nhiều sản phẩm phục vụ đời sống hàng
ngày và trao đổi, buôn bán góp phần đáng kể trong việc sớm ổn định đời sống.
Hình ảnh anh bộ đội với chiếc ba lô hình chử nhật đựng vài bộ quần áo và chiếc
ruột tượng đựng gạo đi về cùng ăn, cùng ở làm việc với dân từ việc to rà phá
bom đạn, đào đất đáp đê, đào hồ chứa nước…đến việc bổ củi náu cơm, cầm chổi
quét sân, đến việc căm cụi dưới bóng đèn dầu dạy trẻ tập học đánh vần ê, a..Các
anh đã để lại những tình cảm tốt đẹp trong nhân dân những nơi đến đóng quân và
công tác. Hình ảnh, việc làm của các anh đã nói lên bản chất của người lính Cụ
Hồ, đã đưa đến cho dân chúng lòng tin tưởng đối với Đảng, Bác Hồ và quân đội nhân
dân.
Về công tác xây dựng Đảng, tháng 3-1955, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị
quyết về: Tăng cường lãnh đạo tư tưởng, củng cố Đảng trong đó chỉ rõ công tác
xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang địa phương, quy địng rõ nhiệm vụ, quyền
hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy quân sự địa phương ( Quân khu ủy, Ban cán sự
Đảng tỉnh đội xuống đến chi bộ Ban chỉ huy huyện đội và chi bộ ở đại đội bộ đội
địa phương huyện) với cấp ủy cấp trên trong quân đội và cấp ủy cùng cấp ở địa
phương. Xác định các chi bộ huyện đội và chi bộ đại đội bộ đội địa phương đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng tỉnh đội và huyện ủy.
Từ một đội quân chiến đấu chuyển sang làm nhiệm vụ của đội quân công tác. Lực
lượng vũ trang huyện Bố Trạch đã nhanh chóng làm quen với nhiệm vụ mới. Do được
học tập, quán triệt tốt các chính sách và kỷ luật trước khi vào làm nhiệm vụ
tiếp quản. Chính vì vậy, các đơn vị bộ đội địa phương đến dân quân du kích
khi vào tiếp quản vùng giãi phóng đã thể hiện rõ tính kỷ luật, luôn chấp hành
nghiêm mệnh lệnh, nhiệm vụ được giao. Bộ đội, dân quân du kích nhanh
chóng cùng cơ sở cách mạng, chính quyền các địa phương nắm bắt diễn biến tình
hình tư tưởng, các hoạt động phản động, chống phá cách mạng và những khó khăn
trong sản xuất, đời sống, sinh hoạt hàng ngày của nhân dân và địa phương; Từ đó
có biện pháp đề xuất cùng chính quyền tìm cách giãi quyết nhằm sớm ổn định tình
hình.
Cùng với việc hàn gắn vết thương chiến tranh, Ban cán sự Đảng huyện đội chỉ đạo
các lực lượng vũ trang cùng tham gia với Đảng bộ và nhân dân các xã Nam Trạch,
Tây Trạch, Hải Trạch đón nhận hàng trăm cán bộ, bộ đội, học sinh miền Nam và
hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên tập kết ra Bắc. Tại các địa phương, cán bộ, đảng
viên và nhân dân đã tận tình giúp đỡ tạo nơi ăn, chốn ở, ruộng đất, trâu, bò,
giống má, dụng cụ sản xuất thể hiện tình cảm yêu thương, đùm bộc lẫn nhau như
con một nhà.
Để chuẩn bị cho công tác bảo vệ cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất,
đại đội 363 bộ đội địa phương huyện được lệnh hành quân ra xã Hướng Phương
huyện Quảng Trạch để học tập đường lối nông thôn của Đảng.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ tháng 2-1955, huyện Bố Trạch tiến hành
cuộc vận động giảm tô. Giai cấp địa chủ đã bị đánh gục một bước về chính trị và
kinh tế. Kết quả đó đã tạo nên một khí thế mới trong nông thôn và nông dân Bố
Trạch.
Sau khi tiến hành giảm tô thắng
lợi, để tăng cường công tác quản lý nhà nước phù hợp với tình hình mới, thi
hành chủ trương của Liên khu ủy IV và của Tỉnh ủy Quảng Bình về việc phân chia
lại đơn vị hành chính cấp xã. Tháng 6-1955, Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện
đã chỉ đạo công tác phân chia lajiddown vị hành chính chính mới từ 8 xã trong
kháng chiến chống Pháp thành 26 xã:
Xã Phúc Trạch thành 3 xã: Phúc Trạch, Xuân Trạch, Lâm Trạch.
Xã Sơn Trạch thành 4 xã: Sơn Trạch, Hưng Trạch, Cự Nẫm, Liên Trạch.
Xã Tây Trạch thành 2 xã: Tây Trạch, Đông Trạch*( năm 1967, xã Đông Trạch được
đổi tên thành xã Hòa Trạch)
Xã Nam Trạch thành 3 xã: Nam Trạch, Lý Trạch, Nhân Trạch.
Xã Trung Trạch thành 2 xã: Trung Trạch, Đại Trạch.
Xã Hải Trạch thành 6 xã: Hải Trạch, Đức Trạch, Đồng Trạch, Phú Trạch, Hoàn
Trạch, Vạn Trạch.
Xã Bắc Trạch thành 4 xã: Bắc Trạch, Thanh Trạch, Hạ Trạch, Mỹ Trạch.
Xã Thượng Trạch thành 2 xã: Thượng Trạch, Tân Trạch.
Đi cùng với việc phân chia lại đơn vị hành chính mới, hệ thống tổ chức Đảng,
chính quyền, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể quần chúng và các ban ngành thuộc
hệ thống chính quyền quả lý cũng được tổ chức, xắp xếp lại và thành lập mới. Về
tổ chức Đảng, từ 8 chi bộ Đảng địa phương nay thành lập mới 25 chi bộ Đảng. về
chính quyền từ 8 Ủy ban hành chính nay thành lập mới 26 Ủy ban hành chính…Riêng
hệ thống xã đội từ 8 xã đội nay thành lập mới 26 xã đội đặt dưới sự lãnh đạo,
chỉ huy của Cấp ủy, chính quyền địa phương và của Huyện đội.
Đối với Huyện đội, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh đội, bộ máy chỉ huy của Ban
chỉ huy Huyện đội được tổ chức lại đáp ứng nhiệm vụ chỉ huy trong thời bình
gồm: Huyện đội trưởng do đồng chí Mai An thay đồng chí Đạt phụ trách* (
đồng chí Mai An quê ở Thanh Hóa), đồng chí Đậu Văn Cảnh chính trị viên, đồng
chí Thuyết và đồng chí Nguyễn Văn Đổng chính trị phó. Đông chí Lê Thân ( Đàm
Lượng) Bí thư huyện ủy làm Trưởng Ban cán sự Đảng huyện đội. Huyện đội lúc này
không tổ chức Ban chính trị và Ban quân sự, thành lập mới tổ kiểm huấn gồm có 7
người và bộ phận văn phòng, liên lạc, hậu cần. Đối với các xã, ngoài Ban chỉ
huy xã đội, đồng chí Bí thư chi bộ xã phụ trách chính trị viên xã đội. Tại các
thôn không vó thôn đội như trong chống Pháp. Lực lượng dân quân, du kích không
tổ chức đơn vị tập trung mà căn cứ vào thực tế của mỗi địa phương mà thành lập
lực lượng dân quân du kích nhưng phải đảm bảo thuận tiện cho công tác lãnh đạo,
chỉ huy của cấp ủy Đảng và xã đội. Đối với các cơ quân cấp huyện, căn cứ
vào só lượng cán bộ, công nhân viên để thành lập lực lượng tự vệ.* (
theo bả tự thuật của đồng chí Nguyễn Văn Đổng nguyên chính trị viên Huyện đội
Bố Trạch)
Sau thắng lợi giảm tô, từ tháng 3 đến tháng 6-1956, thực hiện sự chỉ đạo của
Tỉnh ủy, huyện Bố Trạch tiến hành cuộc vận động cải cách ruộng đất. Đây là một
nhiệm vụ quan trọng nhằm xóa bỏ tận gốc chế độ “ Người bóc lột người”, thực
hiện muc tiêu của Đảng và Bác Hồ đã đề ra “ Người cày có ruộng”. Sau khi tham
gia cuộc vận động giảm tô, thực hiện chủ trương của Tỉnh đội và của Huyện ủy,
lực lượng vũ trang huyện đã tích cự tham gia nhiệm vụ bảo vệ cuộc vận động cải
cách ruộng đất. Trong quá trình tiến hành cải cách ruộng đất, quần chúng nhân
dân được phát động tư tưởng nên tham gia đấu tranh tích cực làm cho uy thế
chính trị, kinh tế của cường hào, địa chủ địa phong kiến ở địa phương bị đánh
đổ hoàn toàn. Tháng 9-1956, cuộc vận động cỉa cách ruộng đất hoàn thành trong
toàn huyện, đã tịch thu trên 4.500 công mẫu ruộng đất, 143 con trâu bò và 175
chum, vại và hàng trăm công cụ sản xuất đem chia cho nông dân.* ( Lịch sử
Đảng bộ huyện Bố Trạch-tậpII-1954-1975, tr 28) Song trong thực tế cũng như
nhiều địa phương khác, cuộc cải cách ruộng đất ở Bố Trạch đã phạm nhiều sai lầm
nghiêm trọng. Cải cách ruộng đất là một chủ trương đúng đắn của Đảng, đáp ứng
nguyện vọng ngàn đời nay của nông dân, nhưng trong quá trình chỉ đạo do không
nắm chắc đường lối, mục tiêu của Đảng nên thực hiện lại rập khuôn, máy móc, tả
khuynh đã dẫn đến tổ chức Đảng, chính quyền từ huyện đến các địa phương bị phân
hóa, đã kích, một số cán bộ, đảng viên bị bắt giữ, bị quy sai, bị đấu tố…
Là một trong những lực lượng quan trọng tham gia chống cưởng ép di cư, hàn gắn
hậu quả chiến tranh, tham gia chống đói và cứu đói, giảm tô và cải cách ruộng
đất…Báo cáo tổng quát của bộ tư lệnh liên khu ủy IV năm 1955, đánh giá sự tham
gia của lực lượng vũ trang liên khu là: Trong năm, bộ đội đã tham gia chống đói
và cứu đói, chống cưởng ép di cư, bảo vệ cải cách ruộng đất, hộ đê phòng lụt…Về
cải cách ruộng đất, hầu hết các đại đội bảo vệ địa phương đều tham gia từng
đợt, được học tập lại chính sách, xác định lập trường của mình, bảo vệ các đoàn
ủy, bảo vệ nhân dân trong các cuộc đấu tranh quan trọng…đều làm tròn nhiệm vụ.
Báo cáo cũng chỉ rỏ nhiệm vụ của lực lượng vũ trang Liên khu trong thời gian
tới là: Mỹ và tay sai tăng cường hoạt động phá hoại, khiêu khích ở giới tuyến,
tung gián điệp ra miền Bắc. Giai cấp địa chủ đã hoàn toàn bị đánh đổ, các phần
tử phản động mất chổ dựa, tuy nhiên phản ứng của chúng đang khá quyết liệt…Xuất
phát từ tình hình đó, Liên khu ủy chỉ thị cho các đơn vị tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng trên cơ sở đó tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch xây
dựng quân đôi. Tăng cường công tác phòng thủ và củng cố quốc phòng, đồng thời
giải quyết tốt một số vấn đề do chiến tranh để lại.
Ngày 3-6-1957, thực hiện sắc lệnh số 017/SL của Chủ tịch nước, Quân khu IV được
thành lập trên cơ sở từ Liên khu ủy IV. Từ đây Quân khu thực hiện chức năng quả
lý nhà nước về quân sự-quốc phòng, huấn luyện bộ đội, lãnh đạo, chỉ huy các lực
lượng thường trực, hậu bị dân quân, tự vệ về xây dựng và tác chiến, chịu trách
nhiệm mọi mặt công tác quốc phòng trong phạm vi Quân khu. Quân khu IV ra đời,
Huyện đội Bố Trạch cũng như các huyện khác trong Quân khu đều đặt dưới sự chỉ
huy trực tiếp của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu IV.
Để tiến tới xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, ngay sau khi hoàn
thành các nhiệm vụ chống cưởng ép di cư, bảo vệ giảm tô và cải cách ruộng đất,
tiểu đoàn 229 của tỉnh được lệnh hành quân ra Nghi Lộc ( Nghệ An) cũng cố lực
lượng và cùng các tiểu đoàn bạn thành lập Trung đoàn 359 trực thuộc Bộ tư lệnh
Quân khu. Các đại đội 361, đại đội 362, đại đội 363, đại đội 365, trung đội 367
và đại đội 300 do Tỉnh đội trực tiếp chỉ huy làm nhiệm vụ cơ động. ở các
Huyện đội chỉ nắm lực lượng dân quân du kích.
Để đảm bảo cho việc bảo vệ vững chắc địa bàn, Bộ tư lệnh Quân khu và Tỉnh đội
Quảng Bình đã tổ chức, kiện toàn lại lực lượng và xây dựng phương án phòng thủ
trên hai tuyến phòng thủ biên giới núi và biển. Trên tuyến phòng thủ biển ở Bố
Trạch do tiểu đoàn 501 bộ đội Tỉnh quản lý có đài quan sát ở Lý Hòa, ngoài ra
có hai đồn biên phòng ở Thanh Khê và Lý Hòa. Tháng 7-1957, tiểu đoàn 25 trực
thuộc Tỉnh đội Quảng Bình được thành lập, lực lượng bảo vệ địa bàn toàn tỉnh
được tăng cường.
Để bảo vệ vững chắc tuyến đầu miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Bộ Quốc phòng và Bộ tư
lệnh Quân khu IV đã quyết định đưa sư đoàn 325 vào Quảng Bình, tại Bố Trạch có
trung đoàn 95 về đóng quân và làm nhiệm vụ cơ động.
Theo hiệp định Giơ ne vơ về Việt Nam, giữa năm 1956 sẽ tiến hành tổng tuyển cử
thống nhất Tổ quốc. Nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm trắng
trợn phá hoại Hiệp định Giơ ne vơ, biến vĩ tuyến 17 thành ranh giới chia cắt
lâu dài đất nước ta. Đối với miền Nam, chúng thực hiện chủ nghĩa thực dân mới,
biến miền nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đối với miền Bắc, chúng dùng các
thủ đoạn tiếp tay, móc nối với bọn phản động nằm vùng do thực dân Pháp cài lại
để chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và tiến tới có
thơi cơ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả nước ta. Lúc này ở huyện Lệ
Thủy có “ Đảng cù xuân” một tổ chức phản động do Pháp nuôi dưỡng từ năm 1949,
nay được Mỹ và bọn tay sai Sài Gòn cùng bọn phản động ở Lào tiếp sức đã ngóc
đầu dây chống phá ta. ở phía Bắc cóa “ Đảng Việt Hưng” một tổ chức phản động
được thành lập tại chòm Vòng, xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch đang ráo riết mở
rộng tổ chức và tăng cường các hoạt động.Với tinh thần cảnh giác cách mạng cao
độ, chúng ta đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hoạt động của hai tổ chức
phản động và nhiều hoạt động phá hoại khác của địch ngay trong trứng nước, bảo
vệ tốt an ninh và cuộc sống của nhân dân.
Giữa lúc quân và dân tỉnh ta ra sức thi đua lao động sản xuất, hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế thì ngày 16-6-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh
vào thăm Quảng Bình. Nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Quảng Bình cùng với Vĩnh linh ở tuyến đầu miền
Bắc, tiếp giáp với miền Nam. Mọi việc làm tốt hay xấu của các cô, các chú ở đây
đều có ảnh hưởng nhất định đến cách mạng miền Nam, đều có ý nghĩa đối việc bảo
vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động liều lĩnh gì thì Quảng Bình, Vĩnh Linh
phải đương đầu với chúng trước hết và phải đánh thắng chúng trước hết”.* ( Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Quảng Bình-tập II – 1954-1975, tr 34) Bác còn căn dặn cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang phải nhận rõ vị trí quan trọng của tỉnh mà mài sắc
cảnh giác, tăng cường đoàn kết, ra sức học tập quân sự, chính trị, rèn luyện đạ
đức phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, tích cực tham gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, xây dựng quân đội lớn mạnh về mọi mặt để hoàn thành mọi nhiệm
vụ mà Đảng và nhân dân giao phó trong bất kỳ tình huống nào.
Những lời căn dăn, chỉ bảo ân cần của Bác chính là phướng hành động của cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch.
Song song với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, Đảng ta rất chú trọng
đến việc tăng cường quốc phòng, xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại.
Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Nhận rõ vị trí của một tỉnh tuyến đầu của miền Bắc, Tỉnh ủy Quảng Bình đã sớm
xác định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh là tập trung
xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh
toàn diện.
Căn cứ vào kế hoạch của Tỉnh đội, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ban cán sự
Đảng huyện đội Bố Trạch đã tổ chức quán triệt, học tập trong Đảng và toàn lực
lượng nắm vững những quan điểm xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng lực lượng
vũ trang địa phương, xây dựng quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Đồng
thời làm rõ nhiệm vụ của lực lượng vũ trang huyện trong thế trận chung của cả
tỉnh trong thời bình cũng như khi chiến tranh xảy ra. Trước mắt phải tập trung
học tập chính trị, huấn luyện quân sự, tham gia lao động sản xuất và không
ngừng đề cao cảnh giác cách mạng đối phó thắng lợi với âm mưu khiêu khích gây
chiến của địch trên các tuyến biên giới, chống mọi hoạt động người nhái, biệt
kích, gây bạo loạn, giữ vững an ninh trong huyện.
Năm 1958, năm thứ tư thực hiện kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng
sau kháng chiến chống Pháp. Tháng 3-1958, Tổng quân ủy tổ chức Hội nghị cấp cao
toàn quân để bàn và quyết định chủ trương, biện pháp đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng
quân đội đến năm 1960. Chủ tịch Hồ chí Minh đến thăm và biểu dương sự tiến bộ
của toàn quân. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị, Người chỉ rõ nhiệm vụ trước
mắt của quân đội ta là: “ Một là, chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng
hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để gìn giữ hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà. Hai là, tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây
dựng kinh tế, xây dựng và củng cố hậu phương…Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó thì
phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục
chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân. Phải chấp hành
nghiêm chỉnh chế độ và kỷ luật.”* (Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong quân
đội nhân dân Việt Nam, tập II, tr 82, 83)
Sau Hội nghị cán bộ cấp cao trong quân đội, vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng
trong lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch được nâng một bước, công tác Đảng, công
tác chính trị được quan tâm hơn. Hoạt động học tập, nghiên cứu đường lối cách
mạng, đường lối quân sự, các chủ trương, nhiệm vụ quốc phòng, nhiệm vụ xây dựng
quân đội, xây dựng lực lương vũ trang địa phương của Đảng được chú trọng. Công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ gắn với việc nâng
cao chất lượng huấn luyện và xây dựng lực lượng vũ trang huyện được xem là
nhiệm vụ trung tâm trong mọi hoạt động của cơ quan quân sự huyện, của xã đội và
các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích.
Sau khi căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục
kinh tế-xã hội. Để thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung
ương Đảng ( thàn 11-1958) về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 3 năm (
1958-1960). Ngày 26-12-1958, Khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bố Trạch khóa
năm 1959. Đại hội đã tập trung đánh giá tình hình của huyện từ sau Đại
hội lần thứ IV ( 1951) trong đó dánh giá tình hình sau sử sai cải cách ruộng
đất. Căn cứ vào các chủ trương của Đảng, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ:…Đẩy mạnh
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, thực hiện phong trào hợp tác
hoa, đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể…Nâng cao cảnh giác cách mạng,
giữ vững an ninh trật tự, trị an nông thôn. Sẵ sàng chiến đấu tốt bảo vệ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà. Tập trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tăng cường bồi dưỡng về lý luận cách mạng, phẩm chất đạo đức cộng sản cho
đảng viên…”.
Sau Đại hội Đảng bộ huyện, thực hiện sự chỉ đạo và kế hoạch của Huyện ủy, Ban
cán sự Đảng Huyện đội đã triễn khai Đại hội chi bộ cơ sở và tổ chức đợt sinh
hoạt chính trị chỉnh huấn trong Đảng và trong toàn lực lượng vũ trang huyện.
Đợt chỉnh huấn tập trung học tập, thảo luận nội dung “ Hai con đường” ai thắng
ai giữa con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sau chỉnh huấn, sức
mạnh chiến đấu của tổ chức Đảng trong Huyện đội, đại đội 363, các xã đội và lực
lượng dân quân du kích được tăng cường, nhận thức chính trị, ý thức trách
nhiệm, tính tiền phong gương mẫu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và chiến sĩ
được đề cao.
Nhằm đáp ứng nhiệm vụ phòng thủ và giữ vững hai tuyến biên giới miền núi và bờ
biển, hải đảo, tháng 3-1959, thực hiện quyết định của Bộ Chính trị ban chấp
hành Trung ương Đảng và Thủ tướng chính phủ, tỉnh Quảng Bình thành lập lực
lượng Công an nhân dân vũ trang trên cơ sở lục lượng bộ đội địa phương và bộ
đội Biên phòng.
Tại Bố Trạch, tháng 3-1959, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh công an nhân dân
vũ trang và của Tỉnh ủy, đồn Công an nhân dân vũ trang Thanh khê có phiên hiệu
94 đóng tại xã Thanh Trạch và đồn Công an nhân dân vũ trang Lý Hòa có phiên
hiệu 96 đóng tại xã Hải Trạch được thành lập; mỗi đồn được biên chế từ 20 đến
25 cán bộ và chiến sĩ. Để đáp ứng về quân số cho việc thành lập các đồn Công an
nhân dân vũ trang trên địa bàn, đại đội 363 bộ đội huyện đã chuyển phần lớn cán
bộ, chiến sĩ sang tham gia vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang, số còn lại
không đáp ứng về sức khỏe và yêu cầu phục vụ lâu dài trong quân đội được cho
chuyển ngành, phục viên về địa phương làm lực lượng hậu bị. Như vậy đến đầu năm
1959, đại đội 363 bộ đội địa phương huyện hoàn thành nhiệm vụ và được giãi thể.
Lực lượng vũ trang Bố Trạch lúc này chỉ có Huyện đội bộ, gồm có đồng chí huyện
đội trưởng, đồng chí chính trị viên, 7 đồng chí Kiểm huấn và bộ phận văn phòng,
liên lạc, hậu cần. Ở xã, có xã đội và lực lượng dân quân du kích. Về lực lượng,
Huyện đội có một tiểu đoàn dự nhiệm. Ở địa phương, lực lượng dân quân, du kích
và tự vệ được biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội. Hàng năm lực lượng
dự nhiệm, dân quân du kích và tự vệ đều được huấn luyện quân sự, học tập chính
trị các chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước. Các đồn Công an nhân dân vũ
trang đứng chân trên địa bàn đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân du
kích các xã vùng biển làm nhiệm vụ tuần tra bỏa vệ tuyến biên giới biển và hải
phận, góp phần bảo vệ vững chắc tình hình an ninh nội địa trên địa bàn.
Tại miền Nam, chế độ độc tài Ngô Đình Diệm do Mỹ chỉ huy đã thực hiện luật
10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam giết hại cán bộ, đồng bào ta những ai chúng
nghi là cộng sản và đi theo cộng sản. Không thể cam chịu cảnh Mỹ-Diệm tàn sát,
đồng bào miền Nam buộc phải đứng lên tự vũ trang đấu tranh để cứu nước, cứu mình.
Đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam, Ban chấp hành Trung ương Đảng
( khóa II) đã họp Hội nghị lần thứ 15 và ra Nghị quyết xã định: Mâu thuẩn chủ
yếu của miền Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta, nhân dân ta ở miền Nam với đế
quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm…cho nên ngoài con đường
cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để giãi phóng khỏi
xiềng xích nô lệ. Sau khi có Nghị quyết 15, phong trào cách mạng miền Nam có
những bước chuyển biến mạnh mẽ.
Để đáp ứng kịp thời những yêu cầu của cách mạng miền Nam, ngày 6-5-1959, Tổng
quân ủy và Bộ quốc phòng mở Hội nghị liên tịch tại Quân khu IV. Hội nghị tập
trung phân tích đánh giá tình hình cách mạng miền Nam, tình hình Quân khu trong
đó chỉ rõ: Nước ta đang ở vào hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm, khó khăn; kẻ địch
vừa tàn bạo, vùa có lực lượng quân sự rất mạnh so với lực lượng của ta. Bởi
vậy, trách nhiệm của cấp ủy và chỉ huy các đơn vị là phải giáo dục và động viên
lực lượng vũ trang, lấy lực lượng vũ trang làm nồng cốt để khơi dậy sức mạnh vô
địch và lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu quật cường vì độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc của quần chúng nhân dân; xây dựng quyết tâm chống Mỹ, cứu
nước đến thắng lợi cuối cùng.
Ngay sau Hội nghị Tổng quân ủy, hạ tuần tháng 5-1959, thi hành chỉ thị của Tỉnh
ủy và của Huyện ủy Bố Trạch về tổ chức lực lượng dân quân du kích tham gia cùng
các lực lượng bộ đội, dân quân du kich các huyện mở tuyến đường 16 giao thông
vận tải từ Thạch Bàn ( Lệ Thủy) vào làng Ho. Ban cán sự Đảng huyện đội Bố Trạch
đã xây dựng kế hoạch, phương án huy động lực lượng lớn dân quân du kích các địa
phương làm nhiệm vụ mở đường vận tải chiến lược. Theo nhiệm vụ được giao, huyện
Bố Trạch đã điều động 100 dân công tham gia cùng gần 3000 dân công các huyện và
bộ đội sư đoàn 325
mở đường. Sau gần 3 tháng thi công, tuyến đường đã hoàn thành đúng kế hoạch đã
định để ngày 5 tết canh tý (1960) 200 dân công huyện Lệ Thủy đã vận chuyển
thắng lợi chuyến hàng đầu tiên tại khe Bang mở đường cho những chuyến vận tải
hàng, vũ khí…vào chiến trường suốt cả cược kháng chiến kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
Tháng 7-1959, Đứng trước yêu cầu cung cấp vũ khí cho các chiến trường Nam Trung
bộ và Nam bộ, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập tiểu đoàn 603 vận tải thủy
manh mật danh “ Tập đoàn đánh cá sông Gianh” gồm 107 cán bộ, chiến sĩ do đồng
chí Lưu Đức phụ trách tiểu đoàn trưởng, Hồ Văn Xá chính trị viên tiểu đoàn.
Tiểu đoàn 603 đóng quân tại thôn Thanh Khê xã Thanh Trạch, chuẩn bị cho kế
hoạch cho việc mở tuyến vận tải vào chiền trường miền Nam. Cuối năm 1960, tiểu
đoàn 603 “ Tập đoàn đánh cá sông Gianh” thực hiện chuyến vận tải chở vũ khí đầu
tiên vào chiến trường miền Nam, khi đến địa phận tỉnh Quảng Trị thì gặp bão,
chuyến đi không thực hiện được đúng theo kế hoạch.* ( sau chuyến đi không
thành công của tiểu đoàn 603, đầu năm 1961, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển
hướng tuyến và địa địa điểm ra Đồ Sơn, Hải Phòng).
Để đáp ứng yêu cầu công tác Đảng, Chính trị trong tình hình mới, được sự chỉ
đạo của Huyện ủy, Ban cán sự Đảng huyện đội Bố Trạch đã xây dựng kế hoạch triển
khai công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang huyện sát với
tình hình thực tế yêu cầu nhiệm vụ. Trong điều kiện lực lượng vũ trang huyện
được xấp xếp lại về mặt tổ chức, bộ đội địa phương cụ thể đại đội 363 giãi thể
chỉ còn lại lực lượng dân quân du kích-tự vệ và bộ khung Ban chỉ huy Huyện đội.
Do đó, công tác Đảng, công tác chính trị được điều chỉnh phù hợp với tình hình
thực tiển là phối hợp với cấp ủy địa phương, cơ quan tập trung tổ chức cho dân
quân du kích và tự vệ học tập về thình hình nhiệm vụ của dân quân, tự vệ trong
tình hình mới, tổ chức sinh hoạt chính trị chỉnh huấn trong đội ngũ đảng viên,
sinh hoạt tư tưởng trong toàn lực lượng về nội dung “ Hai con đường” bước đầu
nâng cao nhận thức chính trị trong cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ chính trị,
những tư tưởng, suy nghĩ lệch lạc, mệt mỏi, nghĩ ngơi, xã hơi, công thần, địa
vị không thấy hết trách nhiệm đối với phong trào, đối với sự nghiệp cách mạng
đã dần được khắc phục. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về
đường lối cách mạng của Đảng, nêu cao được vai trò, trách nhiệm trước nhiệm vụ
chính trị được giao. Đối với với lực lượng “ Hậu bị”, Ban cán sự Đảng Huyện đội
và các Ban chỉ huy xã đội đã có nhiều biện pháp tham mưu cho Huyện và các địa
phương tổ chức nhiều cuộc họp, cuộc gặp mặt các quân nhân phục viên tuyên
truyền, động viên các chủ trương, chính sách của Đảng , nhà nước đối với quân
nhân phục viên, tạo điều kiện cho mọi người yên tâm nhận nhiệm vụ tham gia quân
hậu bị tại chổ và sẳn sàng nhận nhiệm vụ trở lại phục vụ trong quân đội.
Để tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích-tự vệ trong toàn
tỉnh, ngày 20-71959, Ban cán sự Đảng-Ban chỉ huy tỉnh đội tổ chức Đại hội thi
đua khen thưởng dân quân-tự vệ toàn tỉnh. Đại hội đánh giá phong trào thi đua:
Trong kháng chiến chống Pháp, tòa tỉnh đã thực hiện khẩu hiệu “ Mỗi người dân
là một người lính, mỗi làng là một pháo đài. Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho
đánh thắng”. Cự Nẫm oai hùng trở thành lá cờ đầu trong chiến đấu của
Bình-Trị-Thiên, Cảnh dương, Hiển Lộc, Hưng Đạo là những làng chiến đấu điển
hình, tiêu biểu cho tinh thần thi đua giết giặc giữ làng. Bên cạnh bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã chiến đấu hàng trăm trận,diệt
hàng ngàn tên địch, thu hàng trăm tấn vũ khí, quân trang, quân dụng. có thể tự
hào rằng trong kháng chiến chống Pháp, Quảng Bình đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử
vẻ vang của mình, đóng góp những thành tích lớn lao vào thắng lợi vĩ đại chung
của dân tộc.
Sau ngày hòa bình, bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, trong
phong trào sản xuất, trên 70% dân quân đã gương mẫu vào tổ đổi công và hợp tác
xã, đồng thời ra sức bảo vệ sản xuất, kiến thiết nông thôn và thành thị. Trong
phong trào huấn luyện quân sự, dân quân đã nêu cao tinh thần đoàn kết, trương
trợ lẫn nhau, học xạ kích đảm bảo yêu cầu 100%. Với những thành tích đạt được,
các cấp đã tiến hành bình bầu được 400 chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, 57 chiến sĩ
thi đua cấp huyện và 7 chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, có tác dụng rất tốt trong vịc
khuyến khích phong trào thi đua xây dựng dân quân-tự vệ tỉnh nhà.
Sau Hội nghị thi đua khen thưởng dân quân –tự vệ, ngày 10-12-1959, Ban cán sự
Đảng- Ban chỉ huy quân sự tỉnh tổ chức hội nghị tổng kết công tác chính trị,
công tác xây dựng lực lượng hậu bị và dân quân-tự vệ năm 1959. Hội nghị đánh
giá: Đối với nhiệm vụ giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, đã tập trung lãnh
đạo thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự. các cấp từ tỉnh đến xã đã tiến hành mở
hội nghị để nghiên cứu chủ trương và đặt kế hoạch lãnh đạo nhân dân thực hiện,
đồng thời tổ chức học tập giáo dục cho dân quân, thanh niên, quân nhân phục
viên và tuyên truyền rộng rãi cho toàn dân. Về lãnh đạo học tập chính trị và
huấn luyện quân sự, các cấp đã tổ chức cho cho dân quân-tự vệ học tập “ Ba
nhiệm vụ của dân quâ-tự vệ”, “ Sáu nghĩa vụ quân sự của quân nhân dự bị” và
tiến hành tổ chức biên chế lực lượng dân quân toàn tỉnh. Công tác xây dựng lực
lượng hậu bị luôn đực các cấp ủy Đảng các địa phương quan tâm làm tốt công tác
tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ sau khi phục viên trở về địa phương đều
có được những nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiêm và nhiệm vụ của lực lượng hậu
bị.
Qua hai năm đầu cãi tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ quân và dân huyện Bố Trạch đã
giành được nhiều thắng lợi hết sức to lớn trên tất cả các mặt trận chính trị,
tư tưởng, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng và công tác xây dựng
Đảng. Qua đó lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Bố Trạch trước
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. Đối với Cấp ủy, chi bộ Đảng
trong lực lượng vũ trang huyện đã thể hiện được vai trò tham mưu và vai trò
lãnh đạo, chỉ huy, biết nắm bắt kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, của
Quân khu, tỉnh ủy, tỉnh đội và của huyện ủy vận dụng cụ thể vào thực tiển hoạt
động, công tác để chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang huyện tham gia tích cực
vào các phong trào thi đua lao động sản xuất khôi phục, phát triển kinh tế của
địa phương và xây dựng lực lượng mạnh cả về chính trị, tư tưởng và lực lượng
đáp ứng nhiệm vụ quân sự đặt ra trên địa bàn.
II- TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, XÂY DỰNG THẾ TRẬN,
SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU.
Bước vào năm 1960, tình hình kinh tế-xã hội trên miền Bắc ngày càng đi vào ổn
địng và phát triển, tiềm lực quân sự và quốc phòng được tăng cường, tạo điều
kiện cần thiết để xây dựng và nâng cao chất lượng quân đội về mọi mặt. Ở miền
Nam, nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng đã vượt qua thời kỳ đen tối,
khó khăn nhất đã tạo được thế và lực ban đầu để đẩy mạnh đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang đưa cách mạng miền Nam tiến lên mạnh mẽ.
Để tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình
hình mới của cách mạng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về tổ chức Đảng ở
các quân khu, tỉnh đội và quy định mối quan hệ giữa các cấp ủy Đảng trong quân
đội với cấp ủy Đảng địa phương. Theo chỉ thị của Ban Bí thư quy định: Đảng ủy
Quân khu ( Quân khu ủy) đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy, quan
hệ giữa quân khu ủy và Khu ủy là quan hệ ngang và phối hợp công tác. Ở tỉnh
đội, tổ chức Đảng đặt dưới sự lãnh đạo của Quân khu ủy và Tỉnh ủy. oqr huyện
đội, tổ chức Đảng đặt dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy và Tỉnh đội…Hệ thống tổ
chức Đảng, hệ thống lãnh đạo,
chỉ huy từ khu ủy, Tỉnh
ủy, Huyện ủy đến chi bộ Đảng cơ sở được tổ chức thống nhất từ Khu ủy đến cơ sở,
khẳng vai trò lãnh trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với quân đội và lực
lượng vũ trang. Hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị ở các đơn vị vũ
trang tập trung đã hình thành. Đại đội bộ đội địa phương có chính trị viên,
trung đội bộ đội địa phương huyện có chi bộ Đảng. Công tác Đảng, công tác chính
trị, vai trò lãnh đạo của Cấp ủy, công tác chỉ huy trong các cơ quan quân sự,
đơn vị chiến đấu đều được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy Đảng cấp
trên.
Trước nhiệm vụ của Quân khu tuyến đầu miền Bắc, Quân khu ủy xác định rõ nhiệm
vụ năm 1960 là: “ Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối toàn diện của Đảng,
tiếp tục quán triệt đường lối nhiệm vụ cách mạng. tăng cường giáo dục chính trị
và lãnh đạo tư tưởng, nâng cáo cảnh giác xã hội chủ nghĩa và nhiệt tình cách
mạng, chống tư tưởng cá nhân và quan điểm tư sản, nâng cao cảnh giác và sẵn
sàng chiến đấu, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đẩy mạnh chính quy hóa, tăng
cường sự lãnh đạo, quản lý cơ sở vật chất, động viên tinh thần học tập khoa
học, kỷ thuật, nghiệp vụ của toàn thể cán bộ, chiến sỹ…Tập trung lãnh đạo công
tác huấn luyện, kiên quyết chấp hành chế độ bồi dưỡng cán bộ. ra sức củng cố và
phát triển lực lượng hậu bị, nghiên cứu giãi quyết vấn đề sản xuất, làm cho các
đơn vị, các ngành đều tiến bộ theo tinh thần “ Chuyển biến mạnh mẽ, toàn bộ,
toàn diện” để góp phần cùng toàn dân hàn thành kế hoạch nhà nước, kết thúc
thắng lợi kế hoạch dài hạn, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, tạo điều
kiện cho kế hoạch tiếp theo.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng tỉnh đội, Ban cán sự Đảng huyện đội Bố
Trạch đã tổ chức học tập và quán triệt trong toàn lực lượng vũ trang Huyện hiểu
rõ tình hình và nắm chắc nhiệm vụ, vượt qua khó khăn, tổ chức học tập chính
trị, tổ chức huấn luyện và sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng lực
lượng và đảm bảo tốt công tác hậu cần phục vụ kịp thời các yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra. Trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế phải thực hiện đúng đường
lối của Đảng là xây dựng kinh tế gắn với quốc phòng, quốc phòng gắn với kinh
tế.
Trên đà thắng lợi sau hơn hai năm thực hiện nhiệm vụ cãi tạo xã hội chủ nghĩa,
phát triển kinh tế-xã hội ( 1958-1960).Để đánh giá lại những thắng lợi đã giành
được và chuẩn bị cho kế hoạch những năm tới. Thực hiện chỉ thị và hướng dẫn của
Tỉnh ủy và của Ban cán sự Đảng tỉnh đội Quảng Bình về việc tổ chức Đại hội Đảng
các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III.
Đầu tháng 5-1960, thực hiện chỉ thị của Đảng ủy Quân khu và hướng dẩn của Ban
cán sự Đảng tỉnh đội và của Huyện ủy, Đại hội Chi bộ cơ quan Huyện đội Bố Trạch
được tổ chức, dự Đại hội có 8 đồng chí đảng viên. Đây là lần đầu tiên Đại hội
Chi bộ cơ quan quân sự huyện được tổ chức đúng theo hướng dẫn của Trung ương.
Đại hội đã đánh giá tình hình: Trong điều kiện lực lượng vũ trang huyện thu hẹp
về biên chế, quân số, không còn đại đội bộ đội địa phương nhưng được sự lãnh
đạo của Huyện ủy và sự chỉ đạo của Tỉnh đội, Ban cán sự Đảng huyện đội bám sát
nhiệm vụ chính trị, đoàn kết, thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ huy đã hoàn
thành tốt các nhiệm vụ trên giao. Căn cứ vào nhiệm vụ, quân số và đối tượng
quản lý là lực lượng dân quân du kích và tự vệ nên đã cụ thể hóa nhiệm vụ trên
giao để từng bước tổ chức, củng cố, kiện toàn, phát triển cơ quan quân sự và
lực lượng vũ trang địa phương đáp ứng nhiệm vụ đặt ra. Phối hợp chặt chẽ với
các địa phương trong việc quản lý và từng bước xây dựng lực lượng hậu bị trở
thành lực lượng nồng cốt, nguồn bổ sung cho quân đội và lực lượng vũ trang địa
phương. Công tác Đảng, công tác chính trị được chú trọng, vai trò lãnh đạo của
Ban cán sự Đảng, của chi bộ Đảng cơ quan huyện đội được tăng cường đã thể hiện
được nhiệm vụ tham mưu và lãnh đạo, chỉ huy về nhiệm vụ quân sự địa phương. Do
đó, đã xây dựng lực lượng vũ trang Bố Trạch ngày càng vững mạnh, đáp ứng các
yêu cầu nhiệm vụ trên giao. Đại hội đề ra nhiệm vụ: Tăng cường củng cố, xây dựng
lực lượng vũ trang, lực lượng hậu bị đảm bảo đủ số lượng và chất lượng, trong
đó tập trung xây dựng lực lượng dân quân du kích, tự vệ trở thành lực lượng
nồng cốt trong công tác bảo vệ thôn xóm và sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu
phá hoại của kẻ địch. Tăng cường công tác giáo dục chính tri, tư tưởng nhằn
nâng cao nhận thức chính trị về Đảng, Bác Hồ, về đường lối cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm, nỗ lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Đại hội bầu chi ủy gồm có hai đồng chí: đồng chí Nguyễn
Dành bí thư chi bộ; đồng chí Dương Trọng Linh chi ủy viên* ( Quyết nghị
chuẩn y Ban chi ủy Chi bộ Huyện đội Bố Trạch-số 135 QN/QB, ngày 25-5-1960-TM/
Thường vụ Tỉnh ủy - Đã ký-Cổ Kim Thành)
Ngày
14 đến ngày 18-6-1960, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Bố Trạch nhiệm kỳ
1960-1961 khai mạc. Đại hội đánh giá tình hình nhiệm kỳ qua và khẳng
định: “ Đảng bộ, quan và dân Bố Trạch đã vượt qua khó khăn, hoàn thành khôi
phục kinh tế, hoàn thành thắng lợi cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến
tranh, xóa nạn mù chử…thực hiện tốt kế hoạch nhà nước năm 1958, từ đó đến nay,
chúng ta liên tiếp thu được nhiều thắng lợi mới về các mặt nhất là việc thực
hiện kế hoạch nhà nước năm 1959 và mấy tháng đầu năm 1960…Đối với công tác quốc
phòng, công tác tuyển quân thực hiện tốt, đảm bảo yêu cầu, toàn huyện hoàn
thành tốt hai đợt tuyển quân với số lượng 280 người. Việc nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng cho lưc lượng dân quân đực chú ý đúng mức. Dân quân tại các
vùng biển, vùng núi tăng cường công tác tuần tra bảo vệ trị an. Lực lượng công
an trong các xã được kiện toàn, đa số đội ngũ cán bộ công an xã đều được tham
gia các lớp huấn luyện nghiệp vụ và phát động được phong trào bảo vệ trị an
trong nhân dân…”. Đại hội đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quooasc
phòng an ninh và xây dựng Đảng trong đó nhiệm vụ quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ:
Kết hợp mở rộng và củng cố hậu phương, củng cố quốc phòng, không ngừng nâng cao
cảnh giác cách mạng, ra sức củng cố chính quyền dân chủ nhân dân chuyên chính,
củng cố mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên cơ sở công nông liên minh..
Để tăng cường xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận, sẵn sàng chiến đấu chống
mội âm mưu phá hoại của kẻ địch, bảo vệ vững chắc địa bàn. Thực hiện đường lối
của Đảng về phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, quốc phòng gắn với kinh tế,
trong các năm 1956-1957-1959, trên vùng đất phía Tây huyện Bố Trạch theo quyết
định của Bộ Nông trường, nông trường quốc doanh Phú Quý được thành lập gồm các
gia đình cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết và một só cán bộ, bộ đội phục viên
người Quảng Bình. Năm 1957, sư đoàn 325 cử 100 cán bộ, chiến sĩ về Sen Bàng
chuẩn bị cơ sở vật chất để năm 1958, hơn 500 cán bộ chiến sĩ và một số cán bộ,
chiến sĩ người địa phương về thành lập nông trường quân đội-Sen Bàng. Tháng
1-1961, thực hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, Nông trường Quân đội-Sen Bàng
làm lễ “ Hạ sao” và trở thành Nông trường quốc doanh Sen Bàng. Đầu năm 1961,
Chính phủ quyết định sát nhập nông trường Phú Quý và nông trường Sen Bàng thành
Nông trường Việt-Trung* ( năm 1960, nông trường Sen Bàng được Trung Quốc
viện trợ một số loại giống cây trồng và kỷ thuật trồng trọt nên được đổi thành
nông trường Việt – Trung) Trong quá trình xây dựng các Nông trường Phú Quý và
Sen Bàng, được sự chỉ đạo của Tỉnh đội và sự giúp đở của Tỉnh đội và Huyện đội
Bố Trạch, lực lượng cán bộ chiến sĩ, công nhân, bộ đội phục viên được tổ chức
thành các đại đội sản xuất. Trong từng đơn vị sản xuất đều có lực lượng tự vệ
được biên chế thành trung đội tự vệ; toàn Nông trường thành một tiểu đoàn, đồng
chí Giám đốc trực tiếp phụ trách tiểu đòan trưởng, đồng chí Bí thư Đảng
ủy làm chính trị viên.
Cán bộ, chiến sĩ, công nhân Nông trường ngoài nhiệm vụ lao động sản xuất còn có
nhiệm vụ tuần tra bảo vệ Nông trường và sẵn sàng phối hợp với bộ đội, dân quân
du kích trong vùng chiến đấu chống các hoạt động phá hoại của bọn phản động và
biệt kích
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đề ra, để chuẩn bị lực lượng và thế
trận cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế
quốc Mỹ và chi viện cho chiến trường miền Nam. Đầu năm 1960, Bộ giao thông vận
tải quyết định chuyển bến phà II gần cửa sông Gianh lên phía thượng lưu gần 4
km, nằm giữa địa phận xã Quảng Thuận ở phía Bắc và giữa địa phận hai xã Hạ
Trạch và Bắc Trạch ở phía Nam. Trong kế hoạch 3 năm ( 1958-1960) khôi phục và
phát triển kinh tế-văn hóa, xã hội, để tạo cơ sở hạ tầng kỷ thuật phục vụ vân
tải biển, phát triển nghề cá đồng thời chuẩn bị một bến cảng đầu cầu chuẩn bị
tiếp nhận hàng hóa, vũ khí cho chiến trường miền Nam. Đầu năm 1960, Bộ giao
thông vận tải quyết định cho Ty giao thông vận tải Quảng Bình xây dựng cảng dân
dụng tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch và cũng trong thời gian này, Xí nghiệp
đánh cá sông Gianh được thành lập, đây là xí nghiệp đánh cá quốc doanh, được
trang bị tàu sắt loại 50 tấn đầu tiên của tỉnh ta, cán bộ, thủy thủ trên các
tàu đều là tự vệ, được trang bị vũ khí có nhiệm vụ làm đầu tàu phát triển nghề
cá, đồng thời có nhiệm vụ cùng xã viên các Hợp tác xã nghề cá bám biển đánh bắt
hải sản và bảo vệ vùng biển xa của tỉnh. Tại các xã vùng biển Thanh Trạch, Hải
Trạch, Đức Trạch, Nhân Trạch ngoài việc thành lập các hợp tác xã nghề cá; tại
các xã Hải Trạch, thanh Trạch đã thành lập các hợp tác xã vận tải biển Hồng Hải
( Hải Trạch) và Thanh Bình ( Thanh Trạch) với hàng chục Ghe bầu có trọng tải từ
50-100 tấn có nhiệm vụ chuyên chở hàng hóa từ các tỉnh phía Bắc về Quảng
Bình-Vĩnh Linh phục vụ đời sống, sản xuất và chuẩn bị các chân hàng cho cuộc
chiến đấu sắp tới. Song song cùng công tác chuẩn bị lực lượng và thế trận ở
vùng biển, trên tuyến phía Tây, cuối năm 1959 đầu năm 1960, huyện đã điều động
hàng trăm dân công tham gia cùng các lực lượng dân công của tỉnh và của Quân
khu mở tuyến đường 15 A, sau này là một trong những tuyến đường quan trọng
trong hệ thống đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam đánh
Mỹ.
Sau 6 năm tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục phát
triển kinh tế-văn hóa xã hội. Để khẳng định và định hướng con đường phát triển
của cách mạng Việt Nam, ngày 5-9-1960, Đại hội Đại biểu Đảng lao động Việt Nam
lần thứ III khai mạc tại Hà Nội. Trong lời khai mạc, đồng chí Hồ Chí Minh, Chủ
tịch Đảng nêu rõ: “ Đại hội lần thứ II là Đại hội kháng chiến, Đại hội lần này
là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà…”. Báo cáo chính trị của Đại hội xác định rõ nhiệm vụ chung của cách mạng
Việt Nam là: “ Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa
bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà…”
Quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất ( 1960-1965), cùng với toàn Đảng bộ và nhân dân toàn huyện, lực lượng vũ
trang Bố Trạch, nhất là lực lượng dân quân du kích đã đi đầu tham gia vào phong
trào hợp tác hóa, phong trào thi đua “ Tiến kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong”
diễn ra sôi nỗi trong các địa phương, mỡ ra những nhân tố mới, phong trào thi
đua mới trong lao động, sản xuất. Đến cuối năm 1960, chất lượng các hợp tác xã
đạt khá và trung bình là 50%, quy mô các hợp tác xã có từ 42 đến 115 xã viên,
phù hợp với trình độ, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ. Cùng với việc phát
triễn các hợp tác xã nông nghiệp, các hợp tác xã mua bán, tín dụng được xây
dựng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế và đời sống của
nhân dân.
Trãi qua hơn 6 năm vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa khôi phục, phát
triễn kinh tế, cán bộ, đảng viên và chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện Bố Trạch
đã có những đóng góp nhất định cùng Đảng bộ, nhân dân toàn huyện hoàn thành các
mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; Bước đầu xây dựng được những cơ sở, nền móng vật chất
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương.
Trứơc yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho một Tỉnh tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Để giã quyết những vấn đề cấp bách mà cách mạng đặt ra, ngày 9-3-1961,
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đã cụ thể hóa những chủ trương, đường
lối của Đảng nhất là nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất mà cụ thể là nhiệm
vụ năm 1961 của tỉnh là: “Đi đôi với phát triển kinh tế, phải ra sức củng cố
quốc phòng”. Như vậy, nhiệm vụ xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến
ngày càng nặng nề, Quảng Bình đã và đang trở thành địa bàn quan trọng của cách
mạng cả nước. Xác định được vị trí chiến lược quan trọng đó, nhân dân và lực
lượng vũ trang địa phương càng thấy rõ hơn vị trí, trách nhiệm của mình trước
Đảng, trước nhân dân đối với nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tuyến đầu miền Bắc xã
hội chủ nghĩa.
Nằm trong chiến lược quân sự chung của tỉnh, nay đứng trước yêu cầu nhiệm vụ
mới đang đặt ra đối với lực lượng vũ trang Bố Trạch, Chi bộ Đảng, Ban chỉ huy
Huyện đội được sự chỉ đạo của Huyện ủy và sự giúp đở Tỉnh đội, tiếp tục hoàn
thiện phương án phòng thủ và đảm bảo trật tự an ninh trên địa bàn huyện. Huyện
đội đã thành lập các tổ công tác và điều động cán bộ xuống nghiên cứu thực địa
xây dựng phương án hình thành các cụm làng xã chiến đấu trong đó tập trung cũng
cố, hoàn thiện cụm chiến đấu Phúc Trạch-Lâm Trạch-Xuân Trạch và tổ chức báo động
kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu ở xã Sơn Trạch. Đi đôi với việc nghiên cứu
xây dựng các cụm lãng xã chiến đấu, Ban chỉ huy Huyện đội hướng dẫn các xã đội
nhất là tuyến biển vận động nhân dân hiến kế, hiến công chế tạo các loại vũ khí
tự tạo bằng các loại vật liệu sẵn có tại chổ như làm các loại chông bằng sắt,
tre, hàng trăm ngọn giáo, mác, đại đao, mã tấu..trang bị cho dân quân và các tổ
tuần tra do nhân dân tự lập.
Để chuẩn bị lực lượng cơ động làm nồng cốt cho cuộc chiến đấu lâu dài chống
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Thực hiện kế hoạch và được sự chỉ đạo cuả Tỉnh đội,
đầu năm 1961, Ban chỉ huy Huyện đội Bố Trạch đã tổ chức tuyển quân thành lập
hai đại đội: Đại đội 364 chốt ở xã Sơn Trạch và đại đội 48 chốt ở núi Bung.
Trong lúc nhân dân miền Bắc đang thực hiện nhiệm vụ của năm đầu kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất thì ở miền Nam, Mỹ-Diệm cấu kết với bọ phản động được chúng cài
lại ở miền Bắc tìm mọi cách để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân ta.
Đúng như nhận định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, vào lúc 23 giờ 30 phút ngày
2-6-1961, đế quốc Mỹ cho máy bay thả biệt kích nhảy dù xuống vung núi phía tây
thôn Cây Lim thuộc xã Lâm Trạch nhằm mục đích móc nối với bọn phản động trong
đồng bào công giáo ở địa phương để nắm bắt và trinh sát tình hình bố phòng của
ta, tổ chức gây dựng cơ sở, chờ thời cơ nổi dậy phá hoại. Phát hiện được bọn
biệt kích nhảy dù xuống địa phương, đồng chí Bí thư chi bộ xã đã cử 3 dân quân
đi theo 3 hướng: Vào Troóc, điện báo cho tỉnh và huyện; báo cáo xã đội và tin
cho dân quân xã Phúc Trạch phối hợp đánh địch; đồng thời báo động dân quân Lâm
Trạch chia thành nhiều mũi bao vây địch chờ lệnh của trên. Dưới sự chỉ đạo của
Tỉnh ủy, Tỉnh đội, Ty Công an Quảng Bình và của Huyện ủy Bố Trạch, lực lượng
huy động tham gia bao vây, truy lùng địch gồm một trung đội Công an nhân dân vũ
trang, một đại đội của sư đoàn 325 và 25 trinh sát phối hợp cùng Công an nhân
dân vũ trang Bố Trạch và dân quân du kích hai xã Lâm Trạch và Phúc Trạch hình
thành lực lượng bao vây địch ở hai cao điểm 368 và 100. Vòng ngoài Công an nhân
dân vũ trang Bố Trạch bao vây chốt chặn các ngã đường đi về các vùng lân cận
Troóc, Gia Hưng, Bùng…Sau 4 ngày đêm mưu trí, dũng cảm, vượt núi, băng rừng mai
phục, truy lùng vào lúc 15 giờ ngày 10-6-1961, bọn biệt kích lọt vào trận địa
mai phục và bị quân, dân ta tóm gọn, bắt sống 3 tên có bí số ECO1, ECO2, ECO3,
thu 3 dù, 3 súng ngắn, 3 tiểu liên, 3 dài truyền tin vô tuyến điện, 7 số mật
mã, một máy vô tuyến để liên lạc với máy bay, 1 tập bản đồ, 3 ống nhòm, 3 giấy
thông hành giả, 2.500 đồng tiền ngân hàng Việt Nam và một số thư, ảnh gữi cho
cha sứ nhà thờ Tam Tang và bọn phản động nội địa.*( Theo hồ sơ các vụ án-lưu
trử tại Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng Quảng Bình). Đây là toán biệt kích của
Mỹ-Diệm nhảy dù xuống Quảng Bình và là toán thứ hai ra miền Bắc, đã bị quân và
dân ta tóm gọn.
Đây là trận chiến đấu thắng lợi đầu tiên của lực lượng vũ trang Bố trạch có sự
chi viện của lực lượng vũ trang tỉnh và bộ đội chủ lực sư đoàn 325 chống gián
điệp, biệt kích Mỹ-Diệm nhảy dù bằng đường không. Thắng lợi này làm cho nhân
dân ta vô cùng phấn khởi, tin tưởng vào khả năng chiến đấu, đập tan âm mưu tung
gián điệp, biệt kích ra phá hoại miền Bắc của Mỹ-Diệm. Qua đây, ý thức nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu của quân và dân càng được
tăng cường. Vụ biệt kích ở thôn Cây Lim đã đưa lại nhiều bài học bổ ích đó là:
Phải thương xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động, sáng tạo
trong đánh địch; công tác phối hợp giữa các lực lượng vũ trang, giữa lực lượng
vũ trang với quần chúng nhân dân; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và vai
trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có như vậy chúng ta mới có đủ khả năng đánh
bại các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch trong việc chống phá sự nghiệp cách
mạng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá miền Bắc của Mỹ-Diệm nhất là sau vụ biệt kích
ở thôn Cây Lim xã Lâm Trạch, ngày 22-6-1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ
thị số 20CT/TW nêu rỏ: “ Yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần đánh giá
đúng âm mưu thâm
độc của kẻ địch, nêu cao hơn nữa tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm vững tình
hình địch, bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu, kịp thời trấn áp mọi hành động
phá hoại hiện hành, chủ động và nhanh chóng tiêu diệt kẻ địch, nhằm phá tan âm
mưu tung gián điệp, biệt kích của Mỹ-Diệm phá hoại miền Bắc nước ta.”* ( Những
sự kiện lịch sử Đảng-tập 4, NXB thông tin lý luận, H 1982, tr 158)
Sau vụ biệt kích nhảy dù xướng thôn Cây Lim bị ta bắt gọn, trong các đêm 21 đến
23 và đêm 25 -7-1961, máy bay địchnhiều lần bay vào không phận miền Bắc để
trinh sát.Ở nội địa tại các xã Vạn Trạch, Nam Trạch và Nhân Trạch xuất hiện
nhiều người lạ mặt. Với tinh thần cảnh giác cách mạng cao độ, quần chúng đã kịp
thời phát hiền báo cho chính quyền có kế hoạch bố trí lực lượng theo giỏi và có
phương án đối phó kịp thời.
Căn cứ vào chỉ thị 20 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và từ thực tế kinh
nghiệm vụ biệt kích ở thôn Cây Lim. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy Chi bộ, Ban
chỉ huy Huyện đội Bố Trạch đã triển khai học tập trong toàn lực lượng vũ trang
huyện về nọi dung chỉ thị 20 và bài học rút ra từ vụ biệt kích ở thôn Cay Lim.
Đồng thời tập trung củng cố, tổ chức lại lực lượng đảm bảo tính cơ động cao,
tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh phương án chiến đấu, tăng cường công tác tuần tra,
phát hiện kịp thời các hoạt động lạ diễn ra trên địa bàn quản lý, có phương án
đối phó, trấn áp kịp thời. Trong nhân dân phong trào chống gián điệp, biệt kích
được phát động sâu rộng được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Công tác phối hợp
chiến đấu giữa bộ đội, Công an nhân dân vũ trang, cong an nhân dân, dân quân du
kích được xây dựng và triển khai thực hiện. Hoạt động tuần tra, canh gác ở hai
tuyến biên giới và những vùng xung yếu được tăng cường. Các đồn biên phòng
Thanh Khê và Lý Hòa lập các đài quan sát và tăng cường công tác kiểm tra bờ
biển, cửa lạch, theo giỏi thuyền, bè lạ xuất hiện trong vùng, đồng thời phối
hợp với các địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, vân động quần chúng nêu cao
ting thần cảnh giác cách mạng, tham gia tích cực các phong trào bảo vệ trị an
thôn xóm.
Để quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên, thực hiện chỉ thị của Tỉnh đội,
Huyện đội Bố Trạch đã cử một cán bộ chuyên trách nhiệm vụ theo dõi công tác tổ
chức, công tác quản lý lực lượng dự bị động viên. Cuối năm 1961, được sự giúp
đở của Tỉnh đội, Huyện đội Bố trạch đã liên tục mở nhiều lớp tập huấn tại
thôn Sao Sa xã Nam Trạch về nhiệm vụ quốc phòng cho cán bộ chủ chốt của huyện
và các xã.
Tháng 8-1961, Tỉnh ủy Quảng Bình họp Hội nghị mở rộng gồm các đồng chí tỉnh ủy
viên, đại biểu các ngành, các đoàn thể cấp tỉnh, Bí thư các huyện ủy, thị ủy,
các đồng chí phụ trách quân sự các cấp để nghiên cứu nghị quyết của Quân ủy
Trung ương về cuộc vận động xây dựng quân đội lên chính quy, hiện đại. Sau Hội
nghi, thực hiện kế hoạch của Huyện ủy và của Ban cán sự Đảng tỉnh đội; Ban cán
sự Đảng huyện đội Bố Trạch đã xây dựng kế hoạch hướng dẫn, chương trình học tập
về các đơn vị và xã đội đã tổ chức triễn khai quán triệt, học tập đến tận
các chi bộ Đảng cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng. Đợt học tập lần này đã
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất là lực lượng đoàn viên, thanh niên,
cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện hiểu và nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ
xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, có trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
có tính kỷ luật nghiêm minh, có trình độ khoa học kỷ thuật, có trình độ tác
chiến, chiến đấu cao đảm bảo sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đánh bại mọi âm
mưu thủ đoạn thâm độc của kẻ địch và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân giao cho.
Sau đợt quán triệt học tập Nghị quyết Quân ủy, thực hiện kế hoạch của Ban chỉ
huy Tỉnh đội về: Thực tập động viên thực binh quân dự bị. Qua kinh nghiệm của
huyện Quảng Trạch, Ban chỉ huy Huyện đội Bố Trạch đã xây dựng kế hoạch, phương
án chiến đấu và tổ chức huy động quân đúng theo chỉ lệnh của tỉnh. Đây là lần
đầu tiên tổ chức thực tập động viên thực binh, tuy có những lúng túng, thiếu
sót trong công tác lãnh đạo, chỉ huy, trong hiệp đòng chiến đấu giữa các lực
lượng, các địa phương đơn vị, nhưng cơ bản đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra
là đảm bảo được quân số điêu động, tinh thần và trình độ sẵn sàng chiến đấu,
thời gian tập hợp quân, kỷ luật trong quá trình thực binh đảm bảo.
Thực hiện kế hoạch cuả Huyện ủy ngày 2-10-1961 về việc tổ chức đại hội Đảng cơ
sở tiến tới đại hội huyện Đảng bộ. Đầu tháng 11-1961, Chi bộ Huyện đội
tiến hành đại hội, Đại hội đã nghiêm túc đánh giá tình hình ưu, khuyết điểm
trong nghiệm kỳ. về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chỉ rõ một số cán bộ, đảng
viên chưa nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, còn có biểu hiện nặng nề
trong thực hiện nhiệm vụ, đoàn kết nội bộ một chiều, chưa xác định rõ trách
nhiệm trước nhiệm vụ và phong trào. Đại hội đề ra Nghị quyết trong đó chỉ rõ:
Tăng cường công tác tư tưởng, công tác chính trị nâng cao nhận thức về nhiệm vụ
quốc phòng, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đập tan các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ
địch bảo vệ vững chắc địa bàn. Đại hội bầu Ban chấp hành chi bộ gồm 5 đồng chí:
Nguyễn Dành, Nguyễn Đỗng, Dương Trọng Linh, Lê Mỹ, Nguyễn Văn Giai, đồng chí
Nguyễn Dành được bầu làm Bí thư chi bộ.
Cuối năm 1961 đầu năm 1962, từ kết quả đạt được của phong trào “ Học tập,tiến
kịp và vượt Đại Phong” và phong trào thi đua “ Ba nhất”, Ban cán sự Đảng và Ban
chỉ huy Huyện đội Bố Trạch tiếp tục chỉ đạo các đơn vị và xã đội các địa phương
tiếp tục đẩy mạnh phong trào, đồng thời vận động toàn lực lượng nhất là dân
quân du kích hưởng ứng mạnh mẽ cuộc vận động thi đua “ Phấn đấu trở thành trai,
gái Đại Phong” do Trung ương Đoàn phát động. Phong trào đã lan tỏa mạnh mẽ
trong các từng lớp đoàn viên thanh niên, đã làm dấy lên một không khí thi đua
lao động sản xuất sôi nởi, rộng khắp. Mọi người hăng hái ra đồng làm việc, tìm
tòi, sáng tạo áp dụng các tiến bộ kỷ thuật vào sản xuất. Qua phong trào thi
đua, toàn huyện Bố Trạch có 269 đoàn viên, thanh niên đạt cấp kiện tướng trong
đó có nhiều đoàn viên, thanh niên là dân quân du kích. Lực lượng dân quân du
kích là lực lượng xung kích, gương mẫu đi đầu phong trào, qua thực tế lao động
sản xuất, lực lượng dân quân du kích thực sự là lực lượng tin cậy của cấp ủy
Đảng và chính quyền địa phương.
Sau thành công của Đại hội Đảng cấp cơ sở, ngày 2-1-1962, Đại hội Đại biểu Đảng
bộ huyện Bố Trạch nhiệm kỳ 1962 khai mạc. Đại hội đánh giá lại tình hình nhiệm
kỳ 1961 và đề ra nhiệm vụ chung trong đó nêu rõ nhiệm vụ quốc phòng an ninh là:
“..Tăng cường củng cố quốc phòng, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ
vững trật tự trị an nông thôn và sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu phá
hoại của đế quốc Mỹ và tay sai” * (Lịch sử Đảng bộ huyện Bố Trạch-tập
2-1954-1975 tr 100) .
Thực hiện Nghi quyết Đại hội Đảng bộ về công tác phát triển kinh tế gắn với
quốc phòng. Ngày 11-2-1962, Ban chấp hành Đảng bộ huyện họp Hội nghị chuyên đề
về phát triên kinh tế và công tác quốc phòng, an ninh, để đảm bảo sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Huyện ủy kịp thời, sát thực tế, Hội nghị đã phân định toàn địa bàn
huyện thành 6 khu vực phát triển kinh tế-xã hội gắn với khu vực phòng thủ quốc
phòng, an ninh đó là:
- Khu vực I: có các xã Thanh Trạch, Bắc Trạch, Hạ Trạch, Mỹ Trạch.
- Khu vực II: có các xã Liên Trạch, Cự Nẫm, Hưng Trạch, Sơn Trạch,
Phúc Trạch, Lâm Trạch và Xuân Trạch.
- Khu vực III: có các xãTrung Trạch, Hoàn Trạch, Vạn Trạch, Đồng
Trạch, Phú Trạch.
- Khu vực IV: có các xã Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Trạch và các thôn
Thanh Hải, Thanh Xuân thuộc xã Thanh Trạch ( các xã miền biển)
- Khu vực V: có các xã Đại Trạch, Nam Trạch, Lý Trạch, Đông Trạch
vàTâyTrạch
- Khu vực VI: có các xã Tân Trạch và Thượng Trạch.
Sau thất bại trong vụ dùng máy bay thả biệt kích xuống vùng núi xã Lâm Trạch,
Mỹ-Diệm thay đổi thủ đoạn tung biệt kích, người nhái ra miền Bắc bằng đường
biển để tập kích, phá hoại các mục tiêu kinh tế, quốc phòng của ta ở ven biển
va nhằm gây khó khăn và tác động về tâm lý, làm ảnh hưởng đến việc sản xuất của
ngư dân trên biển.
Để đối phó kịp thời trước các âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ địch, theo kế hoạch
tác chiến của Bộ Tư lệnh cong an nhân dân vũ trang, các đồn công an nhân dân vũ
trang Thanh Khê và Lý Hòa phối hợp cùng lực lượng dân quân du kích các xã ven
biển, bộ đội Hải quân ở Khe Nước, bộ đội trung đoàn 95 của sư đoàn 325 đóng
quân trên địa bàn triển khai trực chiến đấu theo kế hoạch “ 24 giờ bảo vệ biên
giới”. Các xã biển Thanh Trạch, Hải Trạch, Đức Trạch, Nhân Trạch cùng các đồn
công an nhân dân vũ trang đã có nhiều cuộc họp bàn bạc xây dựng các phương án
tác chiến, triển khai lực lượng tuần tra, tuần tiểu dọc bờ biển bảo vệ các mục
tiêu, trọng điểm. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của
Mỹ -Diệm và phát động phong trào “ Phòng gian bảo mật” trong nhân dân.
Để kịp thời chỉ đạo mọi hoạt động phòng thủ, bảo vệ tốt các mục tiêu, tháng
5-1962, lực lượng dân quân du kích và nhân dân xã Thanh Trạch đã phối hợp với
bộ đội, công an nhân dân vũ trang của tỉnh và đồn Thanh Khê dựng thành công cột
điện thoại vượt sông Gianh cao 22 mét và kéo dây điện thoại vượt sông thắng
lợi, nối thông liên lạc giữa các đồn biên phòng ven biển Quảng Bình từ đồn Roòn vào đến đồng
Cửa Thôn xã Ngư Thủy.
Để tăng cường lực lượng và sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ trong các lực lượng
vũ trang trên địa bàn huyện, Ban chỉ huy huyện đội Bố Trạch đã cử nhiều đoàn
công tác đi cùng cán bộ tham mưu của Tỉnh đội về các xã Nhân Trạch, Đức Trạch,
Hải Trạch, Thanh Trạch kiện toàn lại lực lượng dân quân du kích, xây dựng
phương án chiến đấu, triển khai trận địa và tổ chức tuần tra ven biển. Các đồn
công an nhân dân vũ trang Thanh Khê và Lý Hòa phối hợp cùng các xã đội, Ban
công an xã ven biển tập trung rà soát các đối tượng nghi vấn trong diện quản lý, có biện pháp tập trung giáo dục, cải
tạo ngăn chặn sự ngốc đầu dậy của các phần tử xấu. Cán bộ, chiến sỹ các đồn biên
phòng cùng các Đảng bộ, các tổ chức quần chúng và lực lượng dân quân du kích đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
kịp thời phát hiện các âm mưu phá hoại của kẻ địch.
Sau thất bại của bọn “ Biệt hải” đêm 14-6-1962 do Mỹ-Diệm tung vào bờ biển xã
Ngư Thủy ( Lệ Thủy). Đêm 30-6-1962, Mỹ-Diệm tung một toán 16 tên biệt kích “
người nhái” đột nhập vào quân cảng Hải quân sông Gianh, định gài mìn phá tàu Hải quân của ta, nhằm
tạo tiếng nổ làm cho quần chúng hoang mang, dao động. Với tinh thần cảnh giác
cao độ, bộ đội Hải quân trong lúc tuần tra bảo vệ đã kịp thời phát hiện các
hoạt động của địch và báo động. Theo phương án hiệp đồng tác chiến, bộ đội Hải
quân, đồn công an nhân dân vũ trang Thanh Khê, Ngư trường đánh cá sông Gianh và
dân quân các xã Thanh Trạch và Quảng Văn, Quảng Phúc, Quảng Thuận ( Quảng
Trạch) đã triển khai lực lượng vây bắt. Sau một hồi vây ráp, ta bắt sống 3 tên,
số còn lại hoảng hốt lên xuồng cao su chạy ra biển hòng lên tàu của chúng đội
sẳn để trốn thoát. Phát hiện địch chạy trốn, tàu Hải quân ta truy đuổi và bắt
sống toàn bộ bọn biệt kích “ người nhái”. Chiến công trên thể hiện tinh thần
cảnh giác cao độ, ý chí chiến đấu dũng cảm và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
của ác lực lượng chiến đấu đã kịp thời trừng trị đích đáng hoạt động phá hoại
của địch*( Vụ biệt kích “người nhái” đột nhập vào sông Gianh ngày
30-6-1962, đã được tòa án quân sự xét xử công khai tại thị xã Đồng Hới vào cuối
năm 1962). Tuy nhiên, qua trận hiệp đồng chiến đấu này cũng bộc lộ một số thiếu
sót trong việc chỉ huy hiệp đồng chiến đấu, xây dựng và bố trí lực lượng, chỉ
đạo tác chiến bảo vệ địa bàn. Những thiếu sót này đã được Tỉnh ủy cùng các cơ
quan hữu trách nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm và rà soát lại các phương
án chiến đấu, công tác bố phòng, tổ chức thực hiện. Đồng thời đề nghị Bộ Tư
lệnh Quân khu, Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang nghiên cứu kiện toàn tổ
chức, bbos trí các lực lượng phù hợp với tình hình và đặc điểm của tuyến ven
biển Quảng Bình.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác phòng chống bọn
phản cách mạng, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở tỉnh ta.
Tháng 5-1962, Thường vụ Tỉnh ủy họp Hội nghị và ra Nghị quyết 06 về “ tăng
cường đấu tranh chống bọ phản cách mạng”. Nghị quyết chỉ rỏ: “ Các cơ quan đơn
vị, bộ phận đảm trách những nhiệm vụ quan trọng phải đảm bảo nội bộ thuần khiết
và được bảo vệ một cách nghiêm mật; Bảo đảm làm cho tình hình trật tư, trị an ở
các địa bàn quan trọng về quốc phòng, về kinh tế, chính trị phải được ổn định
thực sự… cần nắm vững đường lối, chính sách, phương châm trong trấn áp bọn phản
cách mạng “ Kiên quyết và thận trọng” nâng cao cảnh giác không để lọt một kẻ
địch, đề phòng lệch lạc không được làm oan một người ngay…”Hội nghị phát động
phong trào thi đua “ Vận động bảo vệ trị an” với thôn Yên Phong xã Quảng Phúc.
Cùng
với nhiệm vụ phòng chống sự phá hoại của kẻ địch và phong trào thi đua lao động
sản xuất thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội mà Nghị quyết Đại hội huyện Đảng
bộ nhiệm kỳ năm 1962 đề ra. Được sự chỉ đạo kịp thời của Huyện ủy và Tỉnh đội,
công tác Đảng, công tác chính trị và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương
được Ban cán sự Đảng, Ban chỉ huy huyện đội Bố trạch hết sức quan tâm. Trong năm
1962, công tác tuyển quân toàn huyện đã tiển đưa 185 đoàn viên thanh niên lên
đường nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu trên giao. Lực lượng dân quân, tự vệ được
tổ chức rộng khắp trong các cơ quan, xí nghiệp, lâm trường, nông trường và các
địa phương. Với số lượng dân quân I – Lực lượng sẵn sàng cơ động chiến đấu có
114 người, dân quân II-dự bị có 118 người, trong số này coa 50% được trang bị
vũ khí; Ngoài ra còn có một lực lượng bộ đội phục viên, dân quân du kích từng
tham gia trong kháng chiến chống Pháp được quản lý chặt chẽ, đưa vào lực lượng
dự bị sẵn sàng chấp hành lệnh tổng động viên khi cần thiết. Lực lượng dân quân
, tự vệ được biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của cấp ủy Đảng. Lực lượng dân quân các xã vùng biển được trang bị
các lợi vũ khí cá nhân thông thường và các loại súng không giật DKZ, súng 12 ly
7 đánh quân đổ bộ đường biển và đường không. Ban chỉ huy Huyện đội liên tục mở
các lớp huấn luyện cho 238 cán bộ xã đội, đại đội, trung đội, tiểu đội dân
quân, tự vệ; Đồng thời cử cán bộ chính trị, quân sự về các địa phương phối hợp
cùng xã đội xây dựng phương án chiến đấu, tổ chức học tập chính trị và huấn
luyện quân sự cho dân quân, tự vệ. Lực lượng dân quân các xã phối hợp cùng các
đồn biên phòng, bộ đội triển khai công tác hiệp đồng chiến đấu, tăng cường công
tác tuần tra, bảo vệ trật tự, trị an và an toàn xã hội. Hai đại đội bộ đội địa
phương của huyện: Đại đội 364 chốt ở Sơn Trạch và đại đội 48 chốt ở núi
Hòn Bung luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, bảo vệ tốt các
mục tiêu.
Trong phong trào thi đua học tập“ Ba nhất”, học tập “ Yên Phong” lực lượng vũ
trang huyện được Tỉnh đội công nhận đơn vị có phong trào dẫn đầu toàn tỉnh,
được nhận cờ “ Ba nhất”. Lực lượng dân quân các xã Đồng Trạch, Nhân Trạch được
công nhận đơn vị tiên tiến, xã Hải Trạch được tặng cờ “ Yên Phong” có phong
trào bảo vệ trị an nông thôn.
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Huyện ủy và của Tỉnh đội, Ban cán sự
Đảng, Ban chỉ huy huyện đội đã có sự chuyển hướng kịp thời trong nhiệm vụ xây
dựng lực lượng vũ trang địa phương sát đúng với thực tế và yêu cầu nhiệm vụ
chiến đấu nên trình độ nhận thức chính trị, quân sự của lực lượng vũ trang
huyện được nâng lên một bước rõ rệt, đủ sức đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu khi có
tình huống xảy ra.
Từ năm 1961 cùng với lực lượng vũ trang cả tỉnh, lực lượng vũ trang huyện
Bố Trạch chuyển sang một thời kỳ mới đó là: Lấy nhiệm vụ bảo vệ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương làm nhiệm vụ trọng tâm. Để đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ mới đòi hỏi phải làm tốt công tác Đảng, công tác chính trị,
phải tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, của chi bộ và của mỗi một cá nhân
đảng viên. Trước
những yêu cầu mới đó, Ban chấp hành chi bộ huyện đội đã bám sát các chủ trương,
đường lối của Đảng, của Quân khu ủy, của Tỉnh ủy, Ban cán sự Đảng tỉnh đội và
của Huyện ủy vận dụng sáng tạo vào thực tế để xây dựng các chương trình, kế
hoạch nhằm thực hiện tốt công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ
trang địa phương. Đó là tiếp tục củng cố kết quả đợt sinh hoạt chính trị mùa
xuân năm 1961; triễn khai đợt sinh hoạt chỉnh huấn trong Đảng mùa xuân năm
1962; cải tiến công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng ( 3-1962), phát
động cuộc vân động xây dựng chi bộ và Đảng bộ “ 4 tốt” ( 6-1962) bao
gồm: Lãnh đạo tốt sản xuất, lãnh đạo tốt việc chấp hành chính sách và pháp luật
của nhà nước, quan tâm đến đời sống của quần chúng; làm tốt công tác vận động
quần chúng; làm tốt công tác củng cố và phát triển Đảng. Tổ chức học tập tài
liệu “ Tình hình và nhiệm vụ” do cục chính trị Quân khu soạn thảo và tài liệu “
Tình hình khẩn trương và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của dân quân-tự vệ” do
tỉnh đội biên soạn, đặc biệt là việc học tập tài liệu “ Chiến tranh nhân dân và
vai trò nhiệm vụ của dân quân-tự vệ”. Qua những đợt sinh hoạt chính trị trên
đây đã nâng cao nhận thức chính trị của cấp ủy và đảng viên về đặc điểm của
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc với sự nghiệp cách mạng giãi phóng dân tộc, thống nhất đất
nước ở miền Nam. Vì sao phải đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa và đẩy mạnh sản
xuất.. chống ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ tàn
tích tư tưởng phong kiến, xây dựng ý thức làm chủ nước nhà và tinh thần làm chủ
xã hội chủ nghĩa; các quan điểm đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư...Vì sao phải xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại; xây dựng lực
lượng vũ trang vũng mạnh toàn diện...Bên cạnh việc tổ chức học tập, quán triệt
các Nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của nhà nước, đường lối xây dựng
quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng
cố tư tưởng; Chi ủy chi bộ Đảng Huyện đội còn cử nhiều cán bộ, đảng viên đi học
tại trường Đảng tỉnh, cử 274 cán bộ công an, quân sự địa phương đi tập huấn các
chương trình do Tỉnh đội và Công an tỉnh tổ chức. Trong công tác xây dựng Đảng
đã chú ý lấy xây dựng chính trị làm gốc, tư tưởng dẫn đầu, gắn công tác xây
dựng đảng với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng an
ninh. Luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng và đề cao đấu tranh
tự phê bình và phê bình trong Đảng để nâng cao phẩm chất chính trị của tổ chức
Đảng và đảng viên, chống lại các tư tưởng bảo thủ, trì trệ, tiêu cực, lạc hậu
làm cho tổ chức Đảng và đảng viên ngày càng tiến bộ.
Thắng lợi trong công
tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang huyện khẳng định
vai trò lãnh đạo của cấp ủy, của chi bộ đã làm tốt công tác tham mưu cũng như
công tác lãnh đạo, chỉ huy và sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chi bộ, Ban chỉ
huy Huyện đội với cấp ủy các địa phương, đơn vị để làm tốt công tác Đảng, công
tác chính trị trong lực lượng vũ trang địa phương.
Bước vào năm 1963, năm bản lề của kế hoạch 5 năm lầ thứ nhất. Để đẩy manh phát
triển kinh tế toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc tiến tới hoàn thành các mục
tiêu nhiệm vụ đề ra. Thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị và chủ trương của
Tỉnh ủy về việc triển khai cuộc vận động cải tiến công tác quản lý hợp tác xã,
cải tiến kỷ thuật trong nông nghiệp, Ban chấp hành Đảng bộ huyện trong phiên
họp ngày 16-3-1962 đã quyết định triễn khai sâu rộng trong toàn thể cán bộ,
đảng viên và các hợp tác xã. Cuộc vận động đã có tác động sâu sắc trong mọi
lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội. Nó làm dấy lên một không khí thi đua cải
tiến công tác quản lý, cải tiến kỷ thuật. Trong quá trình triển khai thực hiện
cuộc vận động, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được củng cố thêm một bước;
quy mô nhiều hợp tác xã được mỡ rộng và chuyển lên bậc cao, công tác quản lý
hợp tác xã được cải tiến, việc xây dựng cơ sở vật chất, kỷ thuật cho các hợp
tác xã được mở rộng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng có nhiều
tiến bộ. Năm 1963, toàn huyện có 20 hợp tác xã, 45 đội sản xuất đạt danh hiệu
tiên tiến, được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen và 36 cán bộ, xã viên đạt
danh hiệu “ Chiến sỹ thi đua”
Đi đôi với việc đẩy mạnh các phong trào thi đua lao động sản xuất, công tác an
ninh quốc phòng cũng được cấp ủy, chi bộ, Ban chỉ huy quân sự huyện đội hết sức
quan tâm. Lực lượng dân quân-tự vệ được tổ chức rộng khắp, mỗi xã có một đại
đội, mỗi hợp tác xã có một trung đội…ngoài ra các địa phương còn thành lập các
đội “ Dân phòng” gồm những xã viên không ở trong lực lượng dân quân, làm nhiệm
vụ phối hợp cùng dân quân tuần tra, bảo vệ an ninh thôn xóm, phát hiện kẻ lạ
mặt, tham gia chế tạo những vũ khí tự tạo rèn dao, mác lào, đại đao, mã tấu,
làm bàn chông, đào hầm xây trận địa chiến đấu. Đối với lực lượng dân quân , tự
vệ song song cùng với việc tập trung lao động sản xuất còn tập trung hoàn thành
các đợt sinh hoạt chính trị, huấn luyện quân sự nâng cao trình độ kỷ thuật,
chiến thuật chiến đấu. Công tác tuyển quân cũng được chú ý, làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ, trong năm đã tiễn đưa
được 400 thanh niên lên đường tham gia nghĩa vụ quân sự. Công tác quản lý, xây
dựng lực lượng quân dự bị đi vào nề nếp, số người đăng ký quân dự bị trên 800
người. Công tác bảo vệ trị an nông thôn được đẩy mạnh, các từng lớp nhân dân
tích cự tham gia vào phong trào bảo vệ trị an thôn xóm. Ý thức cảnh giác cách
mạng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mọi người dân. Chính có sự tập trung chỉ
đạo của Huyện ủy, sự phối hợp giữa huyện đội và các ban, ngành, địa phương và ý
thức tự giác cao của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác
quốc phòng, an ninh nên chúng ta đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả
làm thất bại các hoạt động chống đối, phá hoại của kẻ địch, bảo vệ tốt an ninh
nông thôn và các mụ tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng trên địa bàn.
Để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội, tạo đà hoàn thành thắng lợi kế
hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất, từ ngày 15 đến 17-1963, Đại hội Đảng bộ Bố
Trạch được tổ chức. Đại hội đánh giá tình hình nhiệm kỳ 1962, trong đó khẳng
định: Nhân dân ta đã có nhiều cố gắng, nỗ lực vượt qua khó khăn và đã giành
được nhiều thắng lợi quan trọng..phong trào hợp tác hóa trong toàn huyện tiếp
tục được củng cố và phát triển, lực lượng sản xuất mới được hình thành, quan hệ
sản xuất mới được xác lập..Đại hội đề ra nhiệm vụ mục tiêu, nhiệm vụ cho hai
năm 1964 và 1965 là: Tăng cường công tác quốc phòng, nêu cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu đập tan các âm mưu, thủ đoạn của địch..về
công tác xây dựng Đảng phải chú ý công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và công
tác tổ chức và cán bộ đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.
Nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cấp ủy, của mỗi cán bộ, đảng viên
nhằm tập trung mọi nỗ lực hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hôi..Thực hiện chủ
trương của Huyện ủy, chi ủy, chi bộ Đảng huyện đội đã phát động trong toàn lực
lượng vũ trang địa phương cuộc vận động “ Ba xây, ba chống”. Cuộc vận động đã
làm dây lên một phong trào thi đua sôi nỗi, đưa đến một sự chuyển biến rõ rệt
về tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật tác phong làm việc, sinh hoạt
trong mỗi cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Bằng nhiều hình thức, các đơn vị, cá
nhân đã tổ chức nhiều cuộc sinh hoạt tập thể, hội thao kỷ thuật, hội thi “ Sáng
kiến hay, tay nghề giỏi” nhằn phát động phong trào phát huy sáng kiến và từ đó
có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hay ra đời phục vụ tốt cho công tác học tập,
huấn luyện đạt kết quả cao. Ngư trường đánh cá sông Gianh có phong trào “ đội
thuyền kiện tướng” tất cả cho 1.250 tấn cá. Tự vệ nông trường co su Việt-Trung
có sáng kiến ghép cây cao su đạt tỷ lệ sống 100%, được chuyên gia nước ngoài
đánh giá cao. Trên các công trường 105 và 106 thi công tuyến đường 15a qua Bố
Trạch có sáng kiến làm việc hai ngày “Ngày nắng và ngày mưa” để
đẩy nhanh tiến độ, sớm
hoàn thành việc thông tuyến, thông đường. Tự vệ trong khối cơ quan hành chính
có sáng kiến “ Giảm văn phòng, đông cơ sở” tất cả cán bộ làm công tác quản lý,
công tác tham mưu đều có chương trình, lịch làm việc đi về cơ sở cùng ăn, cùng
ở, cùng làm việc với công nhân, nông dân.
Việc tổ chức các phong trào thi đua đã góp phần động viên cán bộ, đảng viên và
chiến sĩ thi đua lao động sản xuất và làm tốt nhiệm vụ bảo vệ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương, góp phần bảo vệ miền Bắc, sẵn sàng cho
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đúng như Hồ Chủ tịch
đánh giá: “ Đây là cuộc vận động to lớn, một cuộc vận động cách mạng. Nó đưa
lại một cuộc chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và tổ chức, về chính trị và kinh
tế, Cuộc vân động nâng cao kết quả tốt sẽ góp phần to lớn vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thành công và đấu tranh thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà thắng lợi” * ( Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị phổ
biến nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng về cuộc vận động “ Ba xây, ba
chống”, báp Nhân dân ra ngày 4-8-1963)
Giữa lúc nhân dân miền Bắc hăng hái thi dua lao động sản xuất thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất thì ở miền Nam đồng bào ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống Mỹ và tay sai. Trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Đế
quốc Mỹ một mặt tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam, mặt khác tăng cường
các hoạt động tung gián điệp, biệt kích ra phá hoaị miền Bắc thực hiện mưu đồ
mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước Việt Nam.Huyện Bố Trạch là một trong
những địa bàn chiến lược của tuyến đầu miền Bắc xã hội chủ nghĩa vì vậy đế quốc
Mỹ và tay sai thường xuyên tăng cường các hoạt động trinh sát, phá hoại.
Ngày 17-3-1964, tàu chiến Mỹ chở một toán biệt kích người nhái đổ bộ lên bờ
biển Khe Nước ở bắc đèo Lý Hòa, âm mưu đánh sập cầu Khe nước trên đường quốc lộ
1a. Trong đêm tuần tra bộ đội đồn công an nhân dân vũ trang Thanh Khê và dân
quân xóm Lim xã Thanh Trạch phát hiền và đã nhanh chóng triển khai lực lượng
chiến đấu, diệt tại chổ 2 tên biệt kích trong tốp đi đầu. Toán còn lại chuẩn bị
cập bờ, phát hiện bị ta bao vây đã quay thuyền cao su tháo chạy ra biển đến bờ
biển Quang Phú xã Lộc Ninh. Dân quân Quang phú phat hiện đã bao vây tóm gọn.
Trận chến đấu này ta hy sing hai đồng chí: nữ dân quân Nguyễn Thị Vững và binh
nhất Trương công Thìn chiến sĩ đồn công an nhân dân vũ trang Thanh Khê. Tiếp đó
vào lúc 20 giờ ngày 22-3-1964, Mỹ-ngụy lại cho tàu chiến tung một toán biệt
kích người nhái gồm 4 tên xâm nhập vào cảng Gianh định gài mìn phá tàu Hải quân
của ta, để gây tiếng vang trên miền Bắc. Phát hiện thấy hoạt động của địch, Ban
chỉ huy công an nhân dân vũ trang Quảng Bình báo đông cho các đồng công an vũ
trang Nhật Lệ, Lý Hòa, Thanh Khê và dân quân các xã vê biển trong vùng và bộ
đội Hải quân trung đoàn 19 ở Khe Nước triển khai lực lượng chiến đấu đã bắt
sồng 3 tên, tên còn lại hoảng hốt chạy ra biển hòng thoát thân nhưng bị sóng
biển nhấn chìm chết đưối.
Trước những âm mưu phá hoại điên cuồng của đế quốc Mỹ và tay sai ra miền Bắc
nước ta. Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị
đặc biệt để biểu thị quyết tâm cách mạng của toàn thể dân tộc Việt nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giãi phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà.Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết
tâm đánh mỹ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta: “ Nếu chúng liều lĩnh động
đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại thảm hại”. Người kêu gọi: “ Mỗi
người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột
thịt”.
Thực hiện chỉ thị của Huyện ủy Bố Trạch, chi ủy,chi bộ Đảng huyện đội đã xây
dựng chương trình, kế hoạch hướng dẫn và phối hợp với cấp ủy các đơn vị và địa
phương tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn lực lượng học tập
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát động phong trào thi đua “ Mỗi
người làm việc bằng hai”
Mở đầu phong trào thi đua “ Mỗi người làm việc bằng hai” là cuộc vận động các
gia đình đi khai hoang lập khu kinh tế mới mở rộng diện tích canh tác, giản dân
và bố trí lại thế trận quốc phòng, an ninh. Tháng 6-1964, hàng trăm hộ gia đình
với hàng ngàn lao động trong đó có nhiều lao đông nằm trong lực lượng dân quân
của các xã Nhân Trạch, Hải Trạch, Bắc Trạch, Hạ Trạch, Mỹ Trạch đã ly hương lên
các vùng kinh tế mới ở Nhân Hồng (Nam Trạch), Sơn Lộc ( Phú Trạch), Sen Bàng,
Truông Chứa ( xã Đông Trạch), Mỹ Sơn ( Cự Nẫm) và Khe Sắn..Ngoài hàng ngàn héc
ta đất khai hoang, phục hóa trong những năm 1962 và 1963, năm 1964 tại các vùng
kinh tế mới, lực lượng dân quân cùng các gia đình đi kinh tế mới đã khai hoang
được 182 hec ta ruông đất đưa vào khai thác.
Phong trào “ Mỗi người làm việc bằng hai” thực sự trở thành một cao trào cách
mạng và nó ăn sâu vào ý thức của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Trong
mỗi suy nghĩ và việc làm của mọi người đều luôn có ý thức không chỉ mình nghĩ,
mình làm cho mình mà còn nghĩ và làm cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trước tình hình ngày càng gia tăng các hoạt động của Mỹ và tay sai trong việc
tung gián điệp, biệt kích ra phá hoại miền Bắc. Ngày 26-6-1964, Bộ chính
trị Trung ương Đảng ra chỉ thị số 81 CT/TW: “ Tăng cường sẵn sàng chiến đấu
chống lại mọi âm mưu khiêu khích, phá hoại miền Bắc của địch”. Chỉ thị nêu rõ
nhiệm vụ cần kíp của quân và dân miền Bắc là: “Tăng cường công tác phòng thủ,
phòng không sẵn sàng tiêu diệt địch xâm phạm và ra sức chi viện cho cách mạng
miền Nam..”* ( Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ( 1954-1975) tập
I-NXBST, H 1990, tr 55)
Tháng 7-1964, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị cán bộ cốt cán toàn tỉnh để quán triệt
chỉ thị 81 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Sau khi đánh giá tình hình chống
phá các âm mưu tung gián điệp, biệt kích của Mỹ và tay sai ra phá hoại miền Bắc
và Quảng Bình: Hội nghị đề ra nhiệm vụ;Quân và dân toàn tỉnh phải chấp hành đầy
đủ mọi chủ trương của trung ương, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đối phó
với mọi hành động chiến tranh của giặc Mỹ và tay sai trong bất kỳ hình thức,
quy mô nào…nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân toàn quân tỉnh ta là: Tích cực đẩy
manh sản xuất, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời tích cực chuẩn bị để
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch.
Được sự chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu IV, của Tỉnh ủy, Bộ chỉ huy Tỉnh
đội, của Huyện ủy Bố Trạch, Chi ủy, chi bộ Đảng, Ban chỉ huy huyện đội đã tổ
chức nhiều tổ công tác về các địa phương kiểm tra thực địa, tiếp tục hoàn chỉnh
phương án tác chiến, bố trí lại các trận địa và lực lượng chiến đấu Dựa vào các
địa thế tự nhiên, các vùng kinh tế-xã hội để triển khai xây dựng các cụm vùng
chiến đấu, tăng cường sự phối hợp trong công tác tuần tra bảo vệ địa bàn, bảo
vệ các công trình kinh tế, quốc phòng quan trọng. Ban chỉ huy Huyện đội cũng đã
tjafnh lập các đoàn công tác phối hợp cùng Tỉnh đội, Quân khu đi kiểm tra, khảo
sát, xác định các địa điểm ở xã Nam Trạch, Tây Trạch dự định là nơi các cơ quan
của Tỉnh, của Huyện di dời đến khi chiến tranh xảy ra, ngoài ra còn khảo sát
các cụm kho hàng ở Đá Mài, Âm Tiến ( Vạn Trạch) và vùng lèn núi Phong Nha dùng
để đặt các nhà máy, nơi cất giữ lương thực, thực phẩm, thưốc men, vũ khí phục
vụ cho cuộc chiến đấu khi mà đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc.
Trãi qua 10 năm khôi phục, phát triển kinh tế-xã hội, cũng cố quốc phòng, an
ninh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân khu ủy, Tỉnh ủy, Tỉnh đội và
của Huyện ủy, Chi ủy, chi bộ, Ban chỉ huy Huyện đội Bố Trạch và lực lượng vũ
trang địa phương đã đoàn kết một lòng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường,
vượt qua khó khăn, thử thách tham gia tích cực cùng Đảng bộ và nhân dân toàn
huyện khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế-xã hội. Đồng
thời tập trung thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị trong
quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ngày càng lớn mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện cả về
số lượng và chất lượng, cả về trình độ chỉ huy và năng lực chiến đấu. Bước đầu
đã xác lập được hệ thống tổ chức Đảng và hệ thống chỉ huy từ cơ quan chỉ huy
Huyện đội đến cơ sở. Hệ thống chính trị và cán bộ làm công tác chính trị ở cơ
quan chỉ huy và đơn vị chiến đấu được thiết lập. Hoạt động công tác Đảng, công
tác chính trị thống nhất từ cơ quan chỉ đạo, chỉ huy đến đơn vị chiến đấu và
ngày càng đi vào nề nếp, có hiệu quả. Đây là những cơ sở hết sức quan trọng để
các cấp ủy Đảng tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối đối
với lực lượng vũ trang địa phương huyện nhằm xây dựng bộ đội địa phương, dân
quân, tự vệ ngày càng phát triển, vững mạnh toàn diện đáp ứng tốt mọi nhiệm vụ
mà Đảng và nhân dân giao.
NGUYỄN SỸ HÙNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét