PHONG
TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG, CHI BỘ
ĐẢNG THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH
QUYỀN, XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1930 – 12/1946)
I- PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở LÀNG LÝ
HÒA
1-
Tình hình Lý Hòa trước năm 1945.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, biến nước ta từ một nước Phong kiến thành
một nước thuộc địa nữa phong kiến. Để phục vụ lợi ích chính quốc và âm mưu xâm
lược, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Nhằm thực hiện có hiệu qủa mưu đồ khai
thác thuộc địa, chúng
đã áp dụng chính sách chuyên chế về
chính trị, bóc lột tàn bạo về kinh tế và xã hội. Về chính trị chúng chia nước
ta thành ba kỳ: Bắc Kỳ - Trung Kỳ - Nam kỳ với mỗi kỳ có một chế độ và chính
sách cai trị khác nhau. Bắc Kỳ là xứ bảo hộ, Trung Kỳ là xứ tự trị, Nam Kỳ là xứ thuộc địa nhưng thực chất tất cả ba
kỳ đều là thuộc địa của Pháp. Đây chỉ là âm mưu chia để trị và phá vỡ khối đại
đoàn kết dân tộc chống lại thực dân Pháp của nhân dân ta. Bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp lập ra có 6 cấp: Trung ương – Kỳ -
Tỉnh – Huyện ( Phủ ) – Tổng – Xã..
Đứng đầu mỗi Kỳ là quan Khâm sứ người Pháp, ở cấp tỉnh đứng đầu có quan công sứ người Pháp, đến quan Tuần vũ ( tỉnh trưởng) người Việt. Ở
cấp huyện ( Phủ) đứng đầu có quan Tri huyện ( tri phủ). Cấp Tổng có quan Chánh
tổng, phó chánh tổng. Cấp xã
có quan Lý trưởng, phó lý trưởng. Ở mỗi cấp ngoài quan đứng đầu, còn có một bộ máy giúp việc người Việt, như ở cấp xã có Hội đồng hương mục. Tuy mỗi cấp đều
có bộ máy hành chính riêng với danh nghĩa do người Việt quản lý nhưng trông
thực tế lại do người Pháp quản lý và điều hành và thực hiện các chính sách do người
Pháp đặt ra. Các viên quan lại tay sai được người Pháp tuyển dụng, do đó rất
trung thành, tận tụy phục vụ cho chủ Pháp. Ngoài hệ thống bộ máy hành chính,
thực dân Pháp tăng cường xây dựng một quân đội tay sai và mật thám người bản xứ.
Mỗi sắc lính tùy theo nhiệm vụ mà hành động nhưng vẫn không ngoài mục đích đàn
áp, khủng bố nhân dân ta, phục vụ mưu đồ thống trị của thực dân Pháp.
Về kinh tế, thực
đân Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc địa, chúng nắm tất cả các ngành
kinh tế hiện có của ta nhất là nông nghiệp, thương mại, vận tải , tài chính,
ngân hàng...không quan tâm đến việc đầu tư phát triển công nghiệp nặng, chỉ xây
dựng một số nhà máy công nghiệp nhẹ như bia, rượu, dệt, diêm...phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt tại chổ của bọn quan lại thực dân và tay sai bản xứ...
Về xã hội, chúng thực hiện chính
sách ngu dân để trị. Chúng rất hạn chế
việc mở các trường, lớp dạy văn hóa cho con em ngưới Việt. Ở mỗi tỉnh chỉ có
thị xã, trung tâm các huyện mới có trường tiểu học toàn cấp, mãi đến năm 1941
mới có thêm trường trung học nhưng chỉ học đến năm thứ hai. Nội dung dạy học
ngoài một số môn học văn hóa về đạo đức chúng tập trung giáo dục lòng trung
thành với “ mẫu quốc”, đào tạo nên một lớp người bản xứ làm tay sai tận tụy
phục vụ cho chế độ thực dân. Trường lớp học mở ra đã ít, lại giành cho con em
nhà giàu có vào học, vì vậy con em lao động, nhà nghèo ít người được đến trường
đi học. Do đó trông xã hội có đến hơn 90% người Việt Nam phải chịu cảnh mù chữ. Việc
chăm sóc sức khỏe người dân không bao giờ được chính quyền thực dân chú ý, quan
tâm, mỗi tỉnh, thành phố chỉ có một nhà thương. Sức khỏe, tính mạng con người bị coi rẻ, phó mặc cho số phận, trời đất và
các thầy lang nhà.
Về văn hóa, thực dân Pháp
không những không làm gì để “ khai hóa văn minh” như chúng từng rêu rao mà
ngược lại chúng còn reo rắc, truyền bá văn hóa, lối sống phương Tây, khuyến
khích, bảo trợ, dung túng các lối hư, tật xấu của xã hội phong kiến như rượu
chè, cờ bạc, ma chay, đồng bóng., đĩ điếm...nhằm làm lu mờ đi đến xóa bỏ bản
sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta; đưa con người đi đến chổ an phận, thủ
thường, can tâm làm kiếp nô lệ cho chúng.
Tại Bố Trạch, thực dân Pháp đã
thiết lập một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ huyện đến xã, thôn. Chúng chia
Bố Trạch thành 5 tổng: Cao Lao, Hà Bạc, Hoàn Lão, Hoàn Phúc, tổng Sen.* Đứng
đầu huyện là quan Tri huyện, ở tổng có Chánh tổng, phó chánh tổng, ở xã có lý
trưởng, phó lý. Mỗi làng, thôn ngoài vị quan đứng đầu làng còn có bộ máy giúp
việc hương lý còn gọi là “ Ngũ hương” gồm:
- Hương kiểm trông coi việc tuần
phòng trị an thôn, xóm, tuần canh bảo vệ đồi, núi rừng cây , sông suối, ao
hồ...thuộc quyền quản lý.
- Hương bản trông coi việc quản
lý tài sản , công quỷ.
- Hương bộ trông coi việc quản
lý hộ khẩu, khai sinh, khai tử hoặc chuyển đến, chuyển đi.
- Hương mục trông coi, quản lý
đường sá, cầu cống.
- Hương dịch trông coi việc bắt
phu, bắt lính
Bên cạnh các
chức sắc ngũ hương còn có có các chức vị khác như: ông cai Xạ coi quản lý phân
cấp điền thổ, ngư phủ; ông Đoàn coi việc tuần canh; ông Trùm lo việc phục dịch
và ông Xâu ( mõ) làm công việc thông báo, loan báo tin tức việc trong làng,
ngoài xã. Đây là bộ máy hành chính cấp cuối cùng nhưng lại có một vị tri hết
sức quan trọng trong bộ máy nhà nước, nó trực tiếp quản lý, điều hành mọi hoạt
động chính trị - kinh tế - xã hội, an ninh làng, xã theo chính sách cai trị của nhà nước thực dân, phong kiến.
Nằm trong hệ
thống quản lý hành chính nhà nước của huyện Bố Trạch, thôn Lý Hòa cùng với các thôn Thanh Hà ( xã Thanh Trạch), thôn
Quy Đức ( Đức Trạch), phường Hiền Sơn ( xã Phú Trạch), thôn Lý Nhơn Nam và Lý
Nhơn Bắc ( xã Nhân Trạch và Đai Trạch)* ( Lương – Duy – Tâm TỰ - HỌC Lecon de Gesographie du QUẢNG BÌNH 1937 IMPRIMERIE AN – THINH HA NỌI, tài liệu photocoppi, lưu trử tại Ban
Tuyên giáo huyện ủy Bố
Trạch)chuyên sống dựa vào “sông nước”... đều nằm trong tổng Hà Bạc. Các
làng của tổng Hà Bạc tuy mang tính đặc thù riêng về nghề nghiệp nhưng đều chịu
chung chính sách cai trị của thực dân pháp, mọi quyền lợi dân sinh, dân chủ của người dân
Lý Hòa bị chính quyền thực dân và phong kiến kiểm tra, kiểm soát gắt gao.
Làng Lý Hòa –
Hải Trạch là một làng thuần biển, người dân lấy nghề đánh bắt cá biển và nghề
vận tải đường biển, nghề buôn bán làm nghề chính ngoài ra có một số nghề phụ
như đóng thuyền, chế biến nước mắm, làm ruốc, làm mắm, cá khô....Tuy rằng “
biển cả, mạ chung”, ai cũng có quyền thụ hưởng, được ra biển đánh cá nhưng thực
tế, ngư dân Lý Hòa có tới trên 90% là nghèo khó, không có tiền bạc, tài sản để
mua sắm thuyền câu, ngư lưới cụ, ghe bầu để đi biển đánh cá và buôn bán...nên
phải đi làm thuê cho các Vạn chài và các ông chủ ghe bầu. xét về thực chất biển
cả bao la vẫn thuộc về những người lắm tiền, nhiều của giàu có. Người ngư dân
muốn đi biển,ra khơi đánh bắt con cá, con mực...về “nuôi vợ, đợ con” thì phải đi xin, cầu cạnh
các chủ thuyền mới được nhận cho đi biển, đối với những người không có hoặc ít
có kinh nghiệm nghề biển lại càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm việc làm, do đó đưa đến
cuộc sống gia đình đã cùng cực, càng cùng cực hơn. Sống trông điều kiện xã hội một làng biển như vậy, người có thuyền câu,
ghe bầu càng nhanh giàu có, họ không chỉ đủ sức để mua sắm thuyền to, ghe lớn
mà còn có người giàu bỏ ra hàng ngàn quan tiền mua hàng trăm mẩu đất, ruộng lúa
ở Đồng Cao, Hỷ Duyệt, Hoàn Phúc, Vạn lộc, Trung Nẫm (Cự Nẫm) thuê người cày
cấy, gặt hái mỗi năm thu về hàng ngàn thúng lúa. Cũng như tình hình chung của cả nước ta, ở làng Lý Hòa sự phân hóa giữa
người giàu, kẻ nghèo rất rõ ràng, ai giàu cứ giàu, ai nghèo cứ nghèo, đời sống
của người nghèo chỉ có ngày một bần hàn, cơ cực hơn mà thôi
Sống dưới chế độ
phong kiến, thực dân, người dân Lý Hòa không chỉ bị bóc lột lao động hết sức
nặng nề, quanh năm đầu tắt mặt tối “bán mặt cho biển, bán lưng cho trời”, mạng
sống phó thác cho biển cả mà làm vẫn nghèo không nghèo nghèo. Vậy mà, còn phải chịu thêm cảnh thuế khóa, phu phen
tạp dịch hết sức nặng nề, chính vì thế cuộc sống càng thêm cơ cực...Hàng năm,
người dân phải đóng rất nhiều loại thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế điền thổ,
thuế đò, thuế thuyền sách ( thuế biển)...Thuế “ Đảm phụ quốc phòng” 100 đồng/
người; “ Bảo hiểm chiến tranh” 100 đồng/ người; “ Thuế tản cư” 20 đồng/ người;
“thuế thuyền sách” 200 đồng/ thuyền. Tàn nhẫn nhất trong các loại thuế có thuế
đinh, đánh vào dân đinh từ 18 đến 60 tuổi. Mỗi xuất thuế đinh được chúng quy
định 3,6 đồng cộng với các khoản phụ thu khác thành 4 đồng...ngoài ra lợi dụng
việc thu thuế cho nhà nước, bọn quan lại hương lý, địa phương nhân cơ “đục
nước, béo cò” tự ý đặt ra các loại lệ phí riêng, bắt dân đóng góp tiền của để
chúng ăn chơi trong các dịp hội hè, lễ, tết.
Sống dưới ách
thống trị của thực dân, phong kiến; Người dân Lý Hòa luôn bị kiểm soát, kiểm
tra gắt gao. Mọi quyền lợi dân chủ, tự do đi lại, hội họp, làm ăn... đều bị
chúng kiểm soát chắt chẽ, thậm chí còn
bị cấm đoán triệt để. Những lễ giáo, tập tục có từ lâu đời nay đều bị chúng lợi
dụng, triêt để khai thác phục vụ cho mưu đồ xâm lược và chính sách khai thác
thuộc địa. Biển cả là của chung nhưng chúng dùng quan hệ chủ, tớ để chi phối,
điều hành, phân phối quyền lợi và luôn đảm bảo lợi ích phần nhiều cho chủ vạn,
chủ ghe bầu. thuế khóa thu được chúng tìm cách xà xẻo, tham nhũng cho đầy túi
tham.
Song song với các thủ đoạn chuyên
chế về chính trị, bóc lột tàn bạo về kinh tế.
Thực dân Pháp và phong kiến tay sai còn ra sức kìm hãm nhân dân Lý Hòa
trong vòng ngu dốt, bệnh tật. Trông gần 100 năm thống trị của thực dân Pháp,
mãi đến năm 1941 chúng mới xây dựng ở Lý Hòa một trường tiểu học, từ lớp 1 đến
lớp 5, đây là một trong 3 trường tiểu học trên địa bàn huyện Bố Trạch. Trường
học này chúng chỉ thu nạp số con em các gia đình quan lại, địa chủ giàu có. Bên cạnh duy trì chính sách ngu dân,
thực dân Pháp còn duy trì và khuyến khích các hủ tục mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc, ma chay
đồng bóng nhằm kìm hảm người dân Lý Hòa trong vòng ngu dốt và lạc hậu...
Chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp: chuyên chế về chính trị, tàn bạo và thâm độc
trong kinh tế - xã hội đã làm cho nền kinh tế tiểu nông làng Lý Hòa vốn nghèo
nàn, lạc hậu thêm điêu đứng và càng đẩy nhanh cuộc sống của người dân đi vào
con đường cơ cực, đói khổ, bần cùng. Hàng năm có hàng chục lao động nam giới
phải rời bỏ quê hương, bản quán phiêu bạt đi vào Mũi Né, Nam bộ tìm việc làm,
kiếm đồng tiền, bát gạo nuôi sống bản thân và gữi về phụ giúp gia đình...
Chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và tình hình chính trị, kinh tế – xã hội trên
đã dẫn đến sự phân hóa giai tầng xã hội trong làng Lý Hòa khá sâu sắc và nhanh
chóng
Ngư dân Lý Hòa
chiến trên 90% dân số của làng. Họ cần cù lao động, đêm ngày bám biển đánh bắt
cá, tôm...làm ra một lượng lớn thực phẩm cung cấp cho xã hội và trao đổi, buôn
bán đưa về một lượng lớn lương thực nuôi sống gia đình và cộng đồng dân cư ở
địa phương. Nhưng người dân chỉ là người
làm thuê, không có tài sản, công cụ lao động, cuộc sống luôn trong cảnh đói
nghèo khổ, lại bị thực dân, phong kiến thống trị và bốc lột tàn bạo. Chính vì
vậy, nhân dân Lý Hòa hết sức căm thù chế độ thực dân, phong kiến tận xương tủy
và mong ước được đổi đời, họ chỉ chờ có cơ hội là đứng lên đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến
để giãi phóng cuộc đời nô lệ. Vì vậy, khi có Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, người dân Lý Hòa một lòng đi theo Đảng làm cách mạng đến cùng.
Tầng lớp công chức, giáo viên,
tiểu thương, chủ ghe bầu....chiếm số lượng không lớn, họ là quan lại nhà nước,
làm nghề dạy học, buôn bán nhỏ, vận tải thuê... Tuy vậy đây là lực lượng có một
trình độ văn hóa nhất định và do gắn với nghề nên họ có tính linh hoạt, sáng
tạo, nhạy bén trong tiếp cận và tiếp thu cái mới, vượt qua những tồn tại, hạn chế
của xã hội để đạt được điều đặt ra. Mặt khác họ là những người nhận thấy rõ bộ
mặt thật và những chính sách thống trị đầy tàn bạo của của chế độ thực dân,
phong kiến.
Dưới chế độ thực dân nữa
phong kiến, xã hội Việt Nam
nỗi lên các mâu thuẫn lớn giữa dân tộc
ta với thục dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến phát triển đến mức
gay gắt.. Thực tế lịch sử đó đã làm cho nhân dân ta nhanh chóng chấp nhận chủ
nghĩa Mác –Lê nin và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản cùng nhau đoàn kết đứng
lên làm cách mạng đánh đổ thực dân, phong kiến, giành lại độc lập dân tộc,tiến
lên xây dựng một xã hội mới xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Nằm trong bối cảnh chung của đất
nước và dân tộc, người dân Lý Hòa dù ở giai tầng xã hội nào họ vẫn là người lao
động, cuộc sống chịu nhiều áp bức bất công vì vậy khi được tiếp thu những tư
tưởng mới, tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê Nin, họ nhiệt tình, tích cực tham gia đi
theo Đảng công sản làm cách mạng đến cùng.
2- Phong trào yêu nước và cách mạng ở Lý Hòa
trước năm 1945.
Trong những năm
giữa thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX, không can tâm chịu cảnh nước
mất, nhà tan, sống cuộc đời nô lệ. một lần nữa tinh thần yêu nước của nhân dân
ta lại trỗi dậy mạnh mẽ. Các trào lưu yêu nước chịu ảnh hưởng của nhiều hệ tư
tưởng: tư tưởng dân tộc quốc gia theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Dật Tiên (
Trung Quốc ), tư tưởng dân chủ tư sản của cách mạng Pháp, tư tưởng dân chủ lập
hiến kiểu Nhật Bản
Tiêu biểu cho phong trào yêu nước
ấy là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi khởi xướng và lãnh đạo. Năm 1885,
vua Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần Vương vạch tội ác của thực dân Pháp, kêu
gọi văn thân yêu nước đứng lên chống Pháp. Trong phong trào đó có các sỹ phu và
nhân dân Quảng bình dã có nhiều đòng góp sức người, sức của và đã xuất hiện
nhiều tướng lĩnh tài giỏi, dày khí phách chống Pháp như Lê Trực ( Tuyên Hóa )
Nguyễn Phạm Tuân ( Đồng Hới ). Lê Mô Khởi ( Cao Lao Hạ - Bố Trạch ) và tướng
Hoàng Phúc ( Lý Hòa – Bố Trạch ). Tại hậu duệ họ Hoàng Phúc còn lưu giữ một bản
“ Mật kế đồ” và “ một nghiên đựng bút” của tướng Tôn Thất Thuyết, lãnh tụ của phong trào Cần
Vương dưới thời vua Hàm Nghi. Trong đó “ Mật kế đồ “ ghi rõ giao cho tướng
Hoàng Phúc quan phòng sứ : “ Lập căn cứ thủy binh tại làng Lý Hòa để chống
Pháp”, chiếu theo lệnh của chủ tướng, tướng Hoàng Phúc đã cùng nhân dân Lý Hòa
lập phòng tuyến đánh giặc và chọn đình Lý Hòa đặt đại bản doanh chỉ huy. Tuy phong
trào Cần Vương bị thực dân Pháp dập tắt nhưng ngọn lữa yêu nước trong lòng nhân
dân ta vẫn âm ỷ cháy.
Trong những năm
đầu của thế kỷ XX, khi cụ Phan Bội Châu khởi xướng phong trào Đông Du, đưa
những thanh niên Việt Nam
yêu nước sang Nhật du học, sau đó trỡ về nước đánh Pháp. Năm 1903, luật sư
Nguyễn Duy Sán người làng Lý Hòa đã được cụ Phan Bội Châu trực tiếp thuyết giáo,
ông đã hưởng ứng tích cực tham gia hoạt động trong phong trào Đông Du. Tuy vậy,
do hạn chế về lịch sử và thời đại nên các phong trào yêu nước lúc bấy giờ vẫn
không tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn mà vẫn bế tắc không có đường ra.
Giữa lúc tình
hình cách mạng nước ta “ đen tối không có đường ra” thì ảnh hưởng của cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917 và những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở nước
ngoài đã lan truyền về trong nước, ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong một bộ
phận trí thức, học sinh sinh viên, công nhân...
Tháng 6 – 1925,
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triễn của phong trào cách mạng Việt Nam , đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về Quảng Châu(
Trung Quốc) sáng lập tổ chức: “ Hội cách mạng thanh niên Việt nam”. Từ đây chủ
nghĩa Mác – Lê nin được đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tổ chức “ Hội Thanh
niên Việt Nam cách mạng ” truyền vào Việt Nam, làm cho phong trào cách mạng
trong nước có những bước chuyển biến mạnh mẽ cả về lượng và chất. Hàng nghìn
cuộc đấu tranh của thanh niên, học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân, thợ
thủ công...nỗ ra khắp nơi trong các
trong các đô thị và một số vùng ở nông thôn. Đặc biệt nỗi lên có phong
trào đấu tranh đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu (1925), truy điệu cụ Phan Chu
Trinh (1927) đã diễn ra mạnh mẽ trong các tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh
viên ở các đô thị lớn Hà Nội, Sài Gòn, Huế và nhiều nơi khác. Chính từ trong
các cuộc đấu tranh này, một số thanh niên, học sinh người Bố Trạch như các anh
Quách Tuân, Quách Vĩnh ( Hoàn Lão) học tại trường Trương Minh Sanh Hà Nội và trường
Kỷ Nghệ Huế đã sớm chịu ảnh hưởng tư tưởng tiến bộ và tinh thần cách mạnh của
phong trào đấu tranh.
Sau khi tổ chức
“ Thanh niên cách mạng đồng chí hội” ra đời ở Bắc Kỳ, tại Trung Kỳ, tổ chức “
Tân Việt cách mạng Đảng” ( đảng Tân Việt) được thành lập và ở Nam Kỳ, tổ chức “
An Nam cộng sản Đảng” cũng được hình thành.
Năn 1928, trước
sự phát triển ngày càng lớn mạnh của phong trào cách mạng ở các địa phương, tổ
chức đảng Tân Việt đã cử cán bộ và thông qua các cơ sở cách mạng trong hệ thống
đường sắt đến ga Bố Trạch mốc nối, xây dựng cơ sở Đảng trong một số công nhân
nhà ga và thầy giáo dạy học ở làng Hòa Duyệt*. Các anh Nguyễn Trọng Di ( Ga –
xếp ga) và thầy giáo Dương Đình Dư (giáo Duyệt - người làng Hòa Duyệt) đã trỡ
thành cơ sở cách mạng của đảng Tân Việt. Giữa năm 1929, các anh Quách Tuân và
Quách Vĩnh về quê nghĩ hè với tình bạn học củ đã tìm gặp các anh Nguyễn Trọng
Di và Dương Đình Dư thành lập “ Nhóm đọc sách báo” và quyết định lấy các báo có
tư tưởng tiến bộ như “ Việt Nam hồn”, “ Phong Hóa”, “ Hà Thành thời báo” làm
tài liệu học tập và tuyên truyền trong quần chúng, nhất là trong thanh niên,
học sinh, thợ thuyền, nông dân.. vận động quần chúng đấu tranh chống lại sự bóc
lột và các hủ tục phong kiến lạc hậu ở địa phương.
Sau khi thành
lập “ Nhóm đọc sách báo”, theo sự phân công của Nhóm, đồng chí Quách Tuân với
mối quen biết bạn bè đã tìm bắt liên lạc với các đồng chí Nguyễn Hữu Chuyên,
Trịnh Quang Xuân, Dương Văn Lan, đồng chí Quốc Hoa ( Tân) những cán bộ, đảng
viên của tổ chức “ Hội thanh niên Việt
Nam cách mạng” hoạt động trên tuyến đường sắt Hà Nội – Tour ran ( Quảng Nam –
Đà Nẵng) anh Ngô Sỹ Khả ở Huế để nhận truyền đơn, cờ đỏ búa liềm đưa về Quảng
Bình. Qua đường dây liên lạc trên, nhóm đọc sách báo cũng đã bắt được liên lạc
với chị Tôn Nữ Thị Cháu, Tôn Thất Đãi ( Nghè Đãi), Nguyễn Kinh Chi là cơ sở
đảng Tân Việt ở thị xã Đồng Hới.
Tháng 7 năm
1929, đồng chí Lê Viết Lượng ( * quê Đức Thọ Hà tỉnh) được đảng Tân
Việt giao phụ trách 3 tỉnh Quảng Bình – Quảng Trị - Thừa Thiên từ Nghệ An vào
Quảng Bình đã đến ga Bố Trạch bắt liên lạc với các anh Nguyễn Trọng Di và Dương
Đình Dư cơ sở của Tân Việt*. Trong những lần gặp gỡ, tiếp xúc đã trao đổi về
tình hình chính trị, phong trào đấu tranh cách mạng trong nước, trong tỉnh và hoạt động của các đảng viên Tân Việt Quảng
Bình, bàn phương hướng và các biện pháp đẩy mạnh các hoạt động..Qua nắm bắt tình hình
cơ sở Tân Việt ở Quảng Bình đồng chí Lê Viết Lượng đã giới thiệu đồng chí Điện
ở Đồng Hới với các cơ sở Tân Việt ở Bố Trạch và quyết địng thành lập chi bộ Tân
Việt gồm có 3 đồng chí: Điện, Nguyễn Trọng Di, Dương Đình Dư do đồng chí Điện
làm Bí thư*.
Năm 1929, đứng trước
yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam và trong tình hình hoạt động ngày càng mạnh
mẽ của hai tổ chức Đảng: Đông Dương cộng sản đảng ở Bắc Kỳ và An Nam cộng sản đảng ở Nam Kỳ. Nội bộ đảng
Tân Việt có sự phân hóa sâu sắc, các đảng viên có tư tưởng cách mạng đã đấu
tranh đòi chuyển hóa đảng Tân Việt thành Đông Dương cộng sản liên đoàn. Cuối
tháng 12 năn 1929, đồng chí Lê Viết Lượng vào Quảng Bình đã đến Bố Trạch gặp
các đảng viên chi bộ “ ga Bố Trạch” thông báo tình hình vận động, chuyển hóa
của đảng Tân Việt. Tháng 1 năm 1930, đồng chí Lê Viết Lượng trở lại Bố Trạch, chuyển chi bộ đảng Tân Việt thành Chi bộ Đông Dương cộng sản liên đoàn gồm
có ba đồng chí: Điện, Nguyễn Trọng Di, Dương Đình Dư do đồng chí Điện làm Bí
thư*. Trong thời gian về chỉ đạo hoạt động của Chi bộ Tân Việt ở ga Bố Trạch,
đồng chí Lê Viết Lượng đã có những cuộc tiếp xúc với đồng chí Quách Tuân thành
viên “ Nhóm đọc sách báo”và qua giới thiệu, đồng chí Lê Viết Lượng đã về làng
Lý Hòa nắm tình hình, tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng trong một số ngư
dân; đồng chí Nguyễn Phương chủ ghe bầu và hai ngư dân trở thành cơ sở của Chi
bộ Đông Dương cộng sản liên đoàn ga Bố Trạch.
Ngày 3 tháng 2
năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời. Từ đây giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng
cộng sản Việt Nam chính thức bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo, từng
bước đưa phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên giành nhiều thắng lợi vẽ vang.
Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam
thành lập, thực hiện nghị quyết của Trung ương, các xứ ủy Bắc Kỳ - Trung Kỳ -
Nam Kỳ được thành lập làm nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng các tổ chức
cơ sở Đảng và lãnh đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh do Kỳ bộ quản lý. Thực
hiện chủ trương của Xứ ủy Trung Kỳ, trung tuần tháng 4, đồng chí Lê Viết Lượng
xứ ủy viên trực tiếp chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy Thừa Thiên và làm bí thư tỉnh
ủy; ngày 20-4-1930, đồng chí Lê Viết Lượng ra thành lập Tỉnh ủy Quảng Trị. Ngày
22-4-1930, đồng chí Lê Viết Lượng ra Quảng Bình và đến ga Bố Trạch tổ chức họp các
đảng viên Chi bộ Đông Dương cộng sản Liên Đoàn. Tại cuộc họp này, chính thức
chuyển Chi bộ Đông Dương cộng sản liên đoàn thành Chi bộ Đảng cộng sản Việt
Nam, chi bộ có 3 đồng chí: Điện, Nguyễn Trọng Di ( Ga), Dương Đình Dư (Giáo Duyệt)
do đồng chí Điện làm bí thư . Chi bộ Đảng cộng sản “ ga Bố Trạch” thành lập, đây là chi bộ Đảng cộng sản đầu
tiên của huyện Bố Trạch và trên đất Quảng Bình* ( Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình..........và thông báo.......). Việc chi bộ Đảng cộng sản “ga Bố Trạch”
thành lập đánh dấu bước trưỡng thành của những người cộng sản và phong trào
cách mạng ở Bố Trạch nói riêng và của tỉnh Quảng Bình nói chung trong tiến
trình phát triển chung của cách mạng cả nước.
Thực hiện chủ
trương của chi bộ về việc tổ chức tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh
nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động ngày 1 tháng 5 năm 1930. Chiều 30-4-1930, chi
bộ đã có cuộc họp bàn kế hoạch và phân công đảng viên trực tiếp vào thị xã Đồng
Hới treo cờ Đảng và rãi truyền đơn. Tối ngày 30-4-1930, lợi dụng dòng người đi
làm việc về, đồng chí Dương Đình Dư, Quách Tuân đã lọt qua sự kiểm soát của địch
vào thị xã, theo ám hiệu định trước đã bắt liên lạc với các đồng chí Mai Văn
Hồ, chị Tôn Nữ Thị Cháu và các cơ sở
cách mạng của ở thị xã. Tối ngày
30-4-1930 rạng sáng ngày 1-5-1930, lợi dụng đêm tối, các đồng chí Mai Văn Hồ, đã
treo cờ đỏ búa liềm lên cột cờ ở khu nhà hành cung giữa trung tâm thị xã và rãi
truyền đơn dộc theo các phố. Trên một hướng khác, chị Tôn Nữ Thị Cháu làm nhiệm
vụ rãi truyền đơn có nhiều khó khăn hơn. Trên các đường phố, bọn lính gác và
lính tuần tra canh gác, kiểm soát gắt gao. Để tránh khỏi con mắt xoi mói của kẻ
địch, chị Cháu phải đến nhà chú ruột Tôn Thất Cơ đang phụ trách lính phòng
thành ở thị xã, vờ mượn cớ mời chú đến nhà đánh cờ tài bài cùng cha mình. Cùng Tôn Thất Cơ về nhà, ngồi sau xe đạp, chị
Cháu bình tĩnh lấy từng tập truyền đơn rãi đầy đường phố nơi đi qua từ cổng Quảng Bình quan đến trại lính
khố xanh ra tận cửa Nam. Trên hướng cửa Đông, từ cầu Mụ Kề lợi dụng bóng tối
của đường phố, các đồng chí Quách Tuân và Dương Đình Dư nhanh chống dán truyền
đơn lên tường nhà hai bên phố. Rạng sáng ngày 1-5-1930, cờ đỏ búa liềm tung bay
lồng lộng trước gió, truyền đơn kêu gọi công nhân bãi công, học sinh bãi khóa,
tiểu thương bãi thị...kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh đòi tăng lương, giảm
giờ làm, giảm sưu, giảm thuế, chống bắt phu ,bắt lính...xuất hiện khắp các
đương phố. Nhân dân rát hân hoan, lén chuyền tay nhau cùng đọc truyền đơn, phát
hiện truyền đơn cộng sản, bọn Pháp và tay sai ở Thị xã cho quân lính lùng sục
khắp nơi cố tìm cho được công sản.
Hoạt động treo
cờ đỏ búa liềm và rãi truyền đơn trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5,
tại thị xã Đồng Hới do chi bộ Đảng cộng sản ở Bố Trạch tổ chức đã làm thức tỉnh
tinh thần yêu nước trong mỗi người dân thị xã và một số vùng phụ cận. Đây là
một đòn đánh mạnh đầu tiên của cách mạng giáng xuống đầu thực dân Pháp và tay
sai ở Quảng Bình, làm cho chúng vô cùng hoang mang, lo sợ và tìm cách khủng bố,
đàn áp hòng dập tắt phong trào cách mạnh ở tỉnh ta.
Sau thắng lợi của việc rãi truyền
đơn, treo cờ đỏ búa liềm trong ngày 1-5 ở thị xã Đồng Hới, hoạt động của chi bộ “ga Kẻ Rấy” và phong
trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, liên tiếp nỗ ra ở một số địa phương trong tỉnh.
Ngày 1-6-1930, chi bộ “ga Kẻ Rấy”
lãnh đạo nhân dân xóm Rậy thôn Võ Thuận đấu tranh vạch mặt quan tri huyện Dương
Tự Đề và bọn hương lý lang Võ Thuận câu kết với nhau lợi dụng cái chết của chị
Lê Thị Thận để gây sự kiếm tiền...chi bộ đã vận động hàng trăm nông dân kéo về
xóm Rậy đấu tranh vạch mặt hành động tàn ác, bỉ ổi, xấu xa của bọn quan lại,
đồng thời viết đơn giữ lên quan công sứ ở Quảng Bình và viết bài tố cáo tội ác
giữ lên báo “ Tiếng Dân”*. Vụ án mạng chị Lê Thị Thận đã được báo “ Tiếng dân”
đăng tải, tội ác cử bọn quan lại địa phương phơi bày ra trước công luận. Chính
quyền thực dân Pháp và bọn tay sai Nam triều không thể bưng bít được
sự thật vụ án, buộc chúng phải bắt tạm giam và giáng chức quan tri huyện Dương
Tự Đề. Đây là cuộc đấu tranh đầu tiên của nông dân Bố Trạch dưới sựu lãnh đạo
của chi bộ Đảng “ga Kẻ Rấy” mỡ đầu cho một phong trào đấu tranh cách mạng trong
toàn huyện.
Ngày14-7-1930, ngày lễ quốc khánh nước
cộng hòa Pháp, chính quyền thực dân và tay sai Nam triều ở Quảng Bình dự định
tổ chức mít tin và các trò chơi mang tính miệt thị dân tộc như: liếm chảo lấy
tiền đáy chảo, ở trần leo cột mỡ lấy tiền, nhảy bao bố... ngay tại thị xã Đồng
Hới. Phát huy thắng lợi đã giành được, ngày 14-7-1930 nhân ngày quốc khánh nước
cộng hòa Pháp, thực hiện chủ trương của xứ ủy, phá cuộc mít tin, vui chơi của
địch tại thị xã Đồng Hới, chi bộ đã lên kế hoạch rãi truyền đởn thị xã. Tối
ngày 13-7-1930, các đồng chí Quách Tuân, Mai Văn Hồ, Dương Đình Dư đã lợi dụng
bóng đêm, vượt qua vòng kiểm soát gắt gao của địch, lọt vào khu vực lễ đài, nơi
tổ chức các trò vui chơi và cầu Mụ Kề. Truyền đơn phản đối các trò chơi miệt
thị dân tộc, kêu gọi mọi người hãy tẩy chay, không tham gia buổi lễ và các trò chơi
do chính quyền thực dân đặt ra được rãi khắp nơi.
Trung tuần tháng
7-1930, hưởng ứng cuộc đấu tranh của nhân dân hai tỉnh Hà Tỉnh – Nghệ An chi bộ
“ga Kẻ Rấy” vận động hơn 500 phu làm đường Hoàn Lão – Phong Nha và nông dân các
làng Hoàn Lão, Hoàn Phúc, Vạn Lộc đấu tranh đòi địch phải cấp gạo, thực phẩm
cho người đi làm đường, đòi bọn cai lục lộ không được đánh đạp, khủng bố công
nhân. Cuộc đấu tranh kéo dài làm ngưng trệ các hoạt động của địch trên tuyến
đường trong nhiều ngày.
Cuối tháng 7-1930, đồng chí Lê Viết
Lượng xứ ủy viên Trung Kỳ về lại Bố Trạch lần thứ tư để kiểm tr, bổ khuyết, uốn
nắn tình hình hoạt động của chi bộ “ga Kẻ Rấy” đồng thời phổ biến tinh thần của
Trung ương Đảng về việc kêu gọi nhân dân đấu tranh phản đối chiến tranh đế
quốc, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ phong trào cach mạng của các dân tộc thuộc địa và
đòi quyền lợi dân sinh dân chủ. Thực hiện lời kêu gọi của Trung ương và xứ ủy
nhân ngày phản đôí đế quốc chiến tranh (1 -8 -1930), chi bộ đảng nhận thấy đây
cơ hội tốt để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân lao động vè tội ác của thực dân, đế quốc và mỡ rộng sự hiểu biết của
nhân dân về nước Nga xô- viết, kêu gọi nhân dân tăng cường đoàn kết, đấu tranh
bảo vệ nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Chi bộ đảng quyết định tổ
chức rãi truyền đơn, treo cờ Đảng trong nhiều ngày đầu tháng 8, tại thị xã Đồng
Hới. Vượt qua vòng vây kiểm soát chặt chẽ của kẻ địch, các đồng chí đảng viên
vào thị xã, rãi truyền đơn và treo cờ Đảng. Việc đường phố Đồng Hới có đầy
truyền đơn và cờ đỏ búa liềm của cộng sản làm cho chính quyền thực dân Pháp ở
Quãng Bình vô cùng hoang mang, lo sợ. Về sự kiện này, báo “ Tiếng Dân” đã đưa
tin hoạt động này: “ Tối ngày 31-7, cửa thành Đồng Hới canh phòng nghiêm ngặt,
sáng 1-8 ngoài thành có nhiều truyền đơn cộng sản” và “ khỏi ngày 1-8, cửa
thành mở lại như củ, hôm sau ngày 3-8 nơi nhà lục giác trước mặt trường đánh
vợt trong thành treo cờ đỏ búa liềm và truyền đơn”*
Đầu tháng
8-1930, được Lơ- Phôn khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ, tuần vũ Quảng Bình và tri huyện
Bố Trạch hậu thuẫn, bọn hương lý làng Hoàn Phúc cố ý, mưu toan đem bán 50 héc
ta đất đầm phá “ Hạc Hải” vùng đất ngập mặn là đất công của làng cho tên địa
chủ Bùi Huy Tín. Kiên quyết không để đất phá “ Hạc Hải”, nguồn sống của dân
Hoàn Phúc mất vào tay bọn hám lợi, đồng thời vạch mặt dã tâm của bọn quan lại,
chi bộ đảng “ga Kẻ Rấy” đã tuyên truyền và phát động hơn 1000 nông dân Hoàn
Phúc kéo về đình làng đấu tranh. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần
chúng, Bùi huy Tín và bọn hương lý làng Hoàn Phúc dỡ thủ đoạn mư chuộc, vận
động người biểu tình ký vào bản khế ước bán đất, chúng sẽ trả mỡi chữ ký, điểm
chỉ giá 5 đồng bạc. Nhận thấy dã tâm xảo quyệt của kẻ thù, các đồng chí đảng
viên kịp thời đưa ra khẩu hiệu, được đoàn iểu tình hô vang: “ Đất Hoàn Phúc là
do dân Hoàn Phúc cày, phá Hoàn Phúc là của dân Hoàn Phúc, không để một kẻ nào
chiếm làm của riêng”, “ đã đảo bọn Hoang, Thấu bán đất làng mà ăn”. Dỡ đủ thủ
đoạn nhưng vẫn không thu được kết quả, Bùi Huy Tín và bọn Hoang , Thấu hương lý
làng Hoàn Phúc phải tư bỏ âm mưu chiếm đoạt đất đầm phá “ Hạc Hải” thành đất
riêng của Bùi Huy Tín. Cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi lớn: “ Đất Hoàn
Phúc vẫn là của dân Hoàn Phúc...” .
Cùng với việc tổ
chức các hoạt động rãi truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm tại thị xã Đồng Hới và
phát động công nhân, nông dân đấu tranh chống lại các chính sách thống trị hà
khắc và bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và bọn tay sai Nam triều. Thực hiện
chủ trương của chi bộ về việc phát triển đảng viên mới và xây dựng cơ sở cách
mạng. Đảng viên của chi bộ đi về các ga Ngân Sơn, Sa lung xây dựng cơ sở Đảng trong
công nhân đường sắt và về làng Lý Hòa, tuyên truyền vận động, bắt mối xây dựng
cơ sở cách mạng trong nông dân, ngư dân. Tháng 5-1930, chi bộ ga “ Kẻ Rấy” kết
nạp đồng chí Quách Tuân vào Đảng. Tháng 8-1930, đồng chí Lê Viết Lượng trỡ lại
Bố Trạch kiểm tra tình hình, bổ khuyết cho
phong trào cách mạng và những hoạt động của chi bộ ga “ Kẻ Rấy”. Đến Bố
Trạch lần này, đồng chí Lê Viết Lượng xuống Lý Hòa nắm lại tình hình các cơ sở
cách mạng mà đồng chí trực tiếp xây dựng trong năm 1929; tại đây đồng chí Lê
Viết Lượng quyết định thành lập ở Lý hòa một tổ Nông hội đỏ gồm đồng chí Nguyễn
Phương cơ sở nồng cốt và hai cơ sở còn lại thành một tổ ba người. Đây là tổ
Nông hội Đỏ đầu tiên của làng Lý Hòa, của huyện Bố Trạch và trên đất Quảng Bình.
Tháng 9-1930, chi bộ “ga Kẻ Rấy” kết nạp đồng chí Nguyễn Phương vào Đảng. (* Thẻ Đảng số..............) Từ một ngư
dân chủ ghe bầu yêu nước, được giác ngộ cách mạng, đồng chí Nguyễn Phương đã
trỡ thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam .
Đây là hạt giống Đỏ đầu tiên của làng Lý Hòa, đưa Lý Hòa sớm trỡ thành một trong
những cái nôi cách mạng ở Quảng Bình.
Quảng Bình là tỉnh mà thực dân Pháp
cho rằng “Dân tình yên ổn” thì đến lúc này đứng trước những hoạt động của chi
bộ Đảng “ga Kẻ Rấy” và phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng phát triển
trong một số địa phương, chính quyền thực dân Pháp ở Quảng Bình, và bọn tay sai
vô cùng hoang mang, lo sợ mất ăn, mất ngũ “ Quảng Bình nhất khoảnh địa, giai
tặc cảnh, dân giai tặc binh” ( Quảng Bình một khoảnh đất, cảnh vật và con người
đều là giặc) và chúng đe dọa: “ cứ lý nhi hành, tận thiêu, tận sát” ( cứ theo
lý mà làm, đốt sạch, giết sạch ) . Chúng tìm mọi cách lùng bắt các đảng viên,
khủng bố phong trào đấu tranh của quần chúng. Tháng 5-1930, thực dân Pháp ở
Quảng Bình phát hiện được tổ chức cộng sản ở Bố Trạch, chúng điều một trung đội
lính khố xanh do tên án sát Nguyễn Kỳ từ Đồng Hới kéo ra Bố Trạch bao vây nơi
làm việc của đồng chí Nguyễn Trọng Di tại ga Kẻ Rấy và nhà ở của đồng chí Dương
Đình Dư và Quách Tuân. Do được anh Tôn Thất Đãi ( Nghè Đãi) cơ sở cách mạng ở
Đồng Hới báo tin trước đó nên mọi tài liệu báo chí, truyền đơn được các đồng
chí đảng viên và gia đình cất dấu. Bọn địch kép ra bao vây, cho quân lính lùng
soát khắp nơi từ trong nhà ra ngòai vườn nhưng không tìm thấy tài liệu. Không
tìm được truyền đơn , sách báo cộng sản, kẻ địch không có đủ căn cứ để bắt các
đồng chí đảng viên, tuy vậy Nguyễn Kỳ vẫn buộc các đồng chí đảng viên vào Đồng
Hới trình diện. Trong lúc vây bắt các đông chí đảng viên ở Bố Trạch, tên án sát
Nguyễn Kỳ biết tin đồng chí Dương Đình Dư đang dạy học ở trường Trung Thuần
huyện Quảng Trạch, chúng đưa quân ra bao vây trường Trung Thuần; bọn địch ập
đến bất ngờ giữa lúc đồng chí Dương Đình Dư đọc tài liệu tuyên truyền cho học
sinh. Trước những tang vật sách báo, truyền đơn, chúng băt đồng chí Dương Đình
Dư đưa về kết án 5 năm tù và giam tại nhà lao Đồng Hới và quản thúc 2 năm,
riêng đồng chí Quách Tuân do không có bằng chứng, chúng kết án 1 năm tù giam và
quản thúc 2 năm, đồng chí Nguyễn Trọng Di bị trục xuất khỏi Quảng Bình về quê
Đà Nẵng.
Tháng 8-1930, sau lần trở lại Quảng
Bình kiểm tra tình hình phong trào cách mạng và về làng Lý Hòa thành lập tổ Nông hội đỏ, đồng chí Lê Viết
Lượng trở về Huế. Cuối tháng 9-1930, tại tỉnh Thừa Thiên, qua theo giõi hoạt
động của các tổ chức cộng sản, trong một lần vây ráp, bọn Pháp bắt được một
tỉnh ủy viên, do không chịu được những cực hình tra tấn của kẻ địch, đã khai ra
các cơ sở Đảng. Thực dân Pháp tiến hành một đợt khủng bố lớn, bắt gần hết các
đồng chí trong tỉnh ủy và cán bộ, đảng viên các chi bộ. Ngày 10-10-1930, đồng
chí Lê Viết Lượng, Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên cũng bị địch bắt. (* lịch sử Đảng Bộ Thừa Thiên – Huế, tập 1,
1930-1954 tr 95)
Như vậy, việc đồng chí Lê Viết
Lượng xứ ủy viên, người được Kỳ bộ xứ ủy Trung Kỳ giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo thành lập các tổ chức Đảng
và phat triển phong trào cách mạng ở ba tỉnh Quảng Bình – Quảng Trị - Thừa
Thiên; người trực tiếp thành lập chi bộ Đảng cộng sản “ ga Kẻ Rấy” ở Quảng Bình
và thành lập tổ Nông hội đỏ làng Lý Hòa đã bị địch bắt. Cùng với việc chi bộ
Đảng “ ga Kẻ Rấy” bị địch khủng bố, đảng viên lần lượt sa vào tay kể thù. Đây
là một tổn thất lớn đối với tổ chức Đảng, phong trào cách mạng ở ba tỉnh nói chung và làng Lý Hòa nói riêng.
Mặc dù chi bộ Đảng “ ga Kẻ Rấy” bị
đàn áp và tan rã, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng tạm thời lắng
xuống nhưng những thắng lợi giành được trong cuộc vận động cách mạng 1930-1931
tại Quảng Bình, do chi bộ Đảng “ ga Kẻ Rấy” tổ chức thực hiện đã nâng cao uy
tín của Đảng cộng sản và cũng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Chính vì vậy, trong phong trào Mặt trận
dân chủ 1936 -1939 và phong trào kháng Nhật cứu nước 1939 - 1945, mặc dù thiếu
sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và xứ ủy nhưng hoạt động của các tổ chức
Đảng và phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân trong một số địa
phương Quảng Trạch, Bố Trạch, Đồng Hới, Quảng Ninh, Lệ Thủy... vẫn được duy trì
và phát triển khá mạnh mẽ thu được nhiều thắng lợi lớn trong phong trào: vận
động cử tri đi bầu cử đại biểu do Mặt trận dân chủ Đông Dương giới thiệu tham
gia vào viện Dân biểu Trung Kỳ, vận động lấy chử ký toàn dân vào bản “ Dân
nguyện” trong các năm 1936 và năm 1939. Tại Bố Trạch vào năm 1935 dưới áp lực
đấu tranh của phong trào Bình dân ở Pháp và phong trào Mặt trận dân chủ ở Việt
Nam đã buộc chính phủ Pháp phải thực hiện một số chính sách Dân chủ, trả tự do
cho một số tù chính trị phạm. Cuối năm 1935, đồng chí Dương Đình Dư được trả tự
do. Sau khi thoát khỏi nhà tù đế quốc trở về quê, đồng chí Dương Đình Dư đã
liên lạc với đồng chí Quách Tuân vừa ở Bồng Miêu về cùng với một số cơ sở chưa
bị địch đánh phá trong năm 1930 tổ chức vận động, tập hợp quần chúng tham gia
cuộc bầu cử đại biểu vào viện dân biểu Trung Kỳ. Cuộc vận động bầu cử đã thu hút
hàng tăm cử tri đến nghe tuyên truyền, giải thích mục đích, ý nghĩa của cuộc
vận đông bầu cử. Quần chúng đã đi bỏ phiếu với một thái đọ ủng hộ tích cực.
Kết quả hai ứng cử viên Nguyễn Xuân Các và Hoàng Chánh Đống do Mặt trận dân chủ
giới thiệu đã trúng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ với số phiếu cao. Thắng lợi
giành được trong cuộc vận động bầu cử đại biểu vào Viện dân biểu Trung Kỳ, là
một thắng lợi to lớn của Mặt trận dân chủ, là kết quả của sự lãnh đạo và chỉ
đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở Quảng Bình, như báo “ Dân Chúng” cơ quan ngôn
luận của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương xuất bản ở Sài Gòn viết: “ Chính
phủ phản động ấy đã sai lầm. Mặc dù họ tán thành vận động đưa người ra chống
lại người của Mặt trận dân chủ, họ càng bị thiệt hại, thiệt hại một cách nhục
nhã...”, “ Dân Trung Kỳ đã tỏ ra cho bọn phản động thấy trình độ giác ngộ của
họ, tỏ rằng họ xứng hưởng các quyền tự do dân chủ”. ( * Báo Dân Chúng số 57 ngày 14-4-1930)
Nguyễn Sỹ Hùng
Liên hệ với Admin
1 nhận xét:
Harrah's Casino & Hotel - MapYRO
Harrah's 전라남도 출장마사지 Cherokee Casino & Hotel is 전주 출장마사지 located in the 보령 출장마사지 heart of the Great Smoky Mountains 전주 출장안마 of 양주 출장안마 Western North Carolina. The casino offers over 3,600 slot
Đăng nhận xét