Sau hai năm được làm kỳ công ở Đà Nẳng dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân khắc tượng đá, đến nay 18 tượng vị La Hán đã yên vị tại chùa Lý Hòa.
Ngày mồng 10 tháng 10 năm 2013 chuyến xe chuyên dụng đã chở 18 vị La Hán từ thành phố Đà Nẳng ra Lý Hòa, các bức tượng rất nặng, gia đình bác Phan Hải và các anh chị em nhân công phải thay 4 lần xe cẩu mới đưa được 18 vị La Hán vào chùa. các tượng đều làm từ đá nguyên khối, được các bàn tay tài hoa của các nghệ nhân chuyên làm tượng ở Đà Nẳng khắc họa theo bản vẽ thiết kế riêng của Bác Việt KTS thành phố Hồ Chí Minh. Nếu có một lần ghé thăm chùa Lý Hòa mọi người mới cảm nhận được sự tinh tế trong từng đường nét của các pho tượng. 18 vị La Hán đặt rải rác xung quanh chùa Lý Hòa tạo nên dáng vẽ tôn nghiêm của chùa. Đúng như lời Bác Phan Hải đã từng nói chùa Lý Hòa tuy nhỏ nhưng chứa đựng tất cả những tinh tú của phật giáo.
Một số hình ảnh 18 vị La Hán yên vị tại chùa Lý Hòa:
LA HÁN BỐ ĐẠI |
La Hán Thác Tháp
LA HÁN THÁM THỦ
LA HÁN TĨNH TỌA
LA HÁN CỬ BÁT |
LA HÁN PHỤC HỔ |
LA HÁN TỌA LỘC |
LA HÁN KỊ TƯỢNG |
LA HÁN HÀNG LONG |
LA HÁN KHOÁI NHĨ |
La Hán Trường Mi
Tóm lược 18 vị La Hán
1.
La Hán Ba Tiêu
Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền
thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong
lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường
đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong
một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại chỗ của
mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử
năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà,
Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng
dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi
suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu
tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ
trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật.
Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật
tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên
bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng
dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thủ đô
Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả
Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị
La-hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
2. La Hán Bố Đại
Tên
của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền
thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người,
Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động
ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi.
Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng
hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Nhân
có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được
thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí
thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì
có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời
Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau
cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát
tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn
giả.
La-hán
là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi
hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình
như là hiện thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên
hệ.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ
trong núi Quảng Hiếp.
3.
La Hán Cử Bát
Tên
của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại
đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc
vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm
cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh
sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do
phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc
tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài
Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau
khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành
ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người
bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả
hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở
Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui
mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
-
Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với
tất cả Phật tử chí thành đời sau.
Tôn
giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên
được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo
Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông
Thắng Thần Châu.
4.
La Hán Hàng Long
Ngài
tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch
Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại,
đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng
nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng
Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không
còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà
để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”.
Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số
thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như
mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời
nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã
hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy
phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn
400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì
bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời
thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị
La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
5. La Hán Khai Tâm
Hình
tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe
nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc
dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào,
thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên
thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào
dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y
làm đệ tử.
Sau
khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ
niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến
chỗ cũ nói:
-
Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở
đây.
Nói
xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ
chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là
Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây
gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng,
tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh
để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của
Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ chín, thường cùng 900 vị
La-hán trụ trong núi Hương Túy.
6.
La Hán Kháng Môn
Tên
của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một
tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài
không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về
sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với
cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét
sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một
hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ
trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ
tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót
người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền
rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là
trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của
Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo
truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa
cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có
treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố
thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu
tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán
thường trú tại núi Trì Trục.
7.
La Hán Khánh Hỷ
Ngài
tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật
thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia
Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý
nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn
tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài
thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp
để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng
ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh
giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một
lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà
vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc
thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành.
Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm
con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ,
quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng
cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật
pháp soi rọi nhân sinh.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước
Ca-thấp-di-la (Kashmir).
8.
La Hán Khoái Nhĩ
Ngài
tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên.
Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh
siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về
tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là
người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học
đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc
Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ
Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ
dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh
minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Có
chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán
đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe
hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt
căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý
nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán
trụ trong núi Bán-độ-ba.
9.
La Hán Kỵ Tượng
Tên
của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm
nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở
tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Phật
đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo.
Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo
để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi,
nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này.
Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời
gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong
dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào
hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để
hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không
người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong
vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình
hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng
người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh
tích rầm rộ không ngớt.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán
luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
10.
La Hán Phục Hổ
Tên
của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan
tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng
16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện
thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các
Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.
Một
hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử
động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt,
Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười
tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng
được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách
tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem
kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của
bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành
một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh
thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con
hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài người
ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán
Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục
La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
11.
La Hán Quá Giang
Tên
của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là
Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo
truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và
như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người
thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, Ngài
lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi
tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu
Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa
thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để
cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp
nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa,
siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là
một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự
viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa
phản tỉnh tư duy.
Tôn
giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như
Java, Jakarta… nên được mang tên La-hán Quá Giang.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại
Đam-một-la-châu.
12.
La Hán Thác Tháp
Tên
của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập
rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít
khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét
sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được
an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề
giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu
nào cũng thành tựu sự giải thoát”.
Đúng
thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn
thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương
thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc Phong,
nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một
đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo
một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia
không đủ cung ứng. Tôn giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng
đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc
tượng để nhân dân chiêm lễ.
Năm
trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để
giáo hóa. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi
thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được
gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị A-la-hán
phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
13.
La Hán Thám Thủ
Hình
tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài
tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ
biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở
bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca
lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật
thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập
Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả
A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất
gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục.
Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn
không phải giận ghét.
Về
sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người
mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán
thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được
như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu
hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân
gian để hoằng dương Phật pháp”.
Hai
tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100
vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
14.
La Hán Tiếu Sư
Tên
của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). Tương truyền khi còn
ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng
một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm
mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập,
chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài
được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về
phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được
nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước
ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả
Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập
tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:
-
Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất
cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế
thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi
người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của
Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn
đầy.
Qua
câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để
xiển dương pháp Phật.
Theo
Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu
Bát-thích-noa.
15.
La Hán Tĩnh Tọa
Tên
của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của
động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền
thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có
chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư
thế tĩnh tọa.
Đương
thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng
biện bác với hy vọng chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với
niềm tin chân chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán
chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được
định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời,
không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy
nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau
này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước
Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi
vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa
cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
-
Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của
con người chưa được diệt trừ hết.
Vua
nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi
niềm tin nơi Tôn giả.
Theo
Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường
cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
16.
La Hán Tọa Lộc
Ngài
tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng
Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên
rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu
về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Nhân
một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một
trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận
mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để
làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc
ứng cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa
thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành
cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới
thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng
trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển
thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền
Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa
thượng lông mày trắng nói:
-
Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những
kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn
giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là
vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
17.
La Hán Trầm Tư
Ngài
chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất
gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu
trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn
nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, Ngài
lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng
đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ
cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, Ngài cũng
bình thản? dọn ra khỏi phòng.
Sau
khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật
hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức
tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau
Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu
hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành
khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một gia
đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở dài,
thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng
từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác
hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm
nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo
Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ
ở Tất-lợi-dương-cù châu.
18.
La Hán Trường Mi
Tên
của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước
Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống,
điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài
phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
Ngài
cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa
trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không
tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho
mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại
vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả
A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức
giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang
lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi
vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng
tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp.
Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã
hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh
cho người hay tọa thiền trên núi.
Pháp
Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong
Linh Thứu Sơn.
Nguồn: THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU
Liên hệ với Admin
4 nhận xét:
Nguyen Long
Đẹp
Anh Nguyen
ly hoa ma chu doi moi nhieu roi
Hao Quang Anh
Đẹp quá !
Quân Công Tử
quá đẹp
Đăng nhận xét