Cư dân người Việt ở Quảng Bình từ sớm đã chú trọng
những việc buôn bán. Họ trao đổi sản phẩm giữa các vùng, miền với nhau. Cư dân
làm nông nghiệp ở vùng đồng bằng đem lúa gạo và nông sản đổi lấy cá, nước mắm của
cư dân làm ngư nghiệp vùng biển và ngược lại..
Giữa làng xã miền núi và làng xã miền biển khi mới nhìn vào ta thấy ít có mối quan hệ trao đổi, buôn bán qua lại với nhau một cách trực tiếp, nhưng thực chất thì mối quan hệ này lại rất chặt chẽ. Người làng xứ biển rất cần săng, gỗ, tre, mây, ngược lại người làng núi rất cần mắm muối. Sự giao lưu hàng hóa vật chất giữa các vùng miền đã tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển. Người đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi, giao lưu hàng hóa ở các làng xã chính là cư dân buôn bán lưu động.
Giữa làng xã miền núi và làng xã miền biển khi mới nhìn vào ta thấy ít có mối quan hệ trao đổi, buôn bán qua lại với nhau một cách trực tiếp, nhưng thực chất thì mối quan hệ này lại rất chặt chẽ. Người làng xứ biển rất cần săng, gỗ, tre, mây, ngược lại người làng núi rất cần mắm muối. Sự giao lưu hàng hóa vật chất giữa các vùng miền đã tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển. Người đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi, giao lưu hàng hóa ở các làng xã chính là cư dân buôn bán lưu động.
Lý Hòa là làng ven biển, ven sông, ven đường lớn,
điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc đi lại buôn bán, giao lưu ở cả ba con
đường: đường sông, đường biển, đường bộ. Chính nghề đi biển là cơ sở cho nghề
buôn ra đời và phát triển ở làng Lý Hòa.
Cũng
giống các làng buôn khác, số lượng người tham gia vào việc buôn bán cũng rất
đông. Mặc dù sử sách không ghi lại con só cụ thể là bao nhiêu nhưng chúng ta
cũng có thể hình dung được ra rằng số lượng này là trên dưới 1 nghìn người.
Ø Chợ Lý Hòa
Khi sản xuất hàng
hóa đã đạt đến một trình độ nhất định, chợ ra đời nhằm giải quyết nhu cầu trao
đổi – lưu thông hàng hóa. Chợ chính là nơi quần tụ buôn bán trao đổi của con
người. Về thời điểm ra đời chính xác của chợ Lý Hòa chưa thể xác định được một
cách chắc chắn, song theo nguồn tài liệu dân gian, đồng thời căn cứ vào trình độ
phát triển sản xuất có thể khẳng định chợ Lý Hoà có mặt từ rất sớm. Sách Đại
Nam nhất thống chí tập 2 có mô tả lại: “chợ
Lý Hòa huyện Bố Trạch họp buổi chiều, hàng quán thưa thớt”. Đến khi làng
phát triển thì chợ đi vào hoạt động hiệu quả hơn, địa điểm tụ họp đầu tiên của
chợ Lý Hòa nằm ngay đầu làng (Nội Hòa) trên mội dãi đất phẳng, phía dưới là xưởng
đóng thuyền. Chợ thường họp hai buổi một ngày, buổi sáng đông nhất từ 8 – 9h
còn buổi chiều từ 4 – 5h. Ngoài cá là mặt hàng chủ yếu thì chợ Lý Hòa còn là
nơi trao đổi buôn bán các sản phẩm lương thực: gạo, lúa, ngô, khoai, rau,... và
các thứ hàng tiêu dùng cần thiết cho cuộc sống con người: vải vóc, giày dép, kim
chỉ, thuốc lá, gạo
muối, đường, chiếu,...
Hiện nay, chợ Lý Hòa
đã có quy mô rộng lớn hơn trước rất nhiều, các mặt hàng buôn bán cũng khá đa dạng
và phong phú. Vì là làng buôn nên ở đây đầy đủ các mặt hàng của ba miền đất nước,
người dân không phải đi đâu xa để sắm sửa mà đến ngay chợ của mình để mua. Hoạt
động chợ diễn ra sôi nổi tấp nập, nhất là vào các dịp lễ, Tết người ở các làng
kề cận tập trung về chợ Lý Hòa để mua bán làm cho hoạt động của chợ sôi động
hơn.
Như vậy chúng ta thấy
sự ra đời và phát triển của chợ đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó có thể thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển kinh tế của địa phương. Chợ là thước đo trình độ
phát triển của một vùng, nhìn vào chợ ta thấy được nền kinh tế địa phương đó
phát triển hay không.
Nói tóm lại, sự ra đời
của chợ đã phá vỡ nền kinh tế khép kín của làng xã Việt Nam từ bao đời nay mà Lý Hòa cũng
không phải là ngoại lệ. Nó thúc đẩy nền kinh tế thương nghiệp phát triển, nối
liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng. Càng ngày kinh tế càng phát
triển, giao thông đi lại thuận tiện thì chợ được xây dựng với quy mô lớn hơn và
có tác dụng thúc đẩy phát triển đến một địa phương. Đối với đời sống kinh tế của
người dân thì chợ là một bộ phận quan trọng trong kết cấu kinh tế xã hội bất kể
thời kỳ nào. Chợ là nơi diễn ra sinh hoạt mua bán hàng hóa giữa người sản xuất
với sản xuất, giữa thương nhân với thương nhân. Chợ có tác dụng to lớn trong việc
đáp ứng nhiệm vụ cung cầu của toàn xã hội. Do đó chợ là một yếu tố tích cực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ø Đội ngũ thương nhân
Thương nhân buôn ở
chợ làng chủ yếu là phụ nữ. Từ xưa, phụ nữ làng Lý Hòa đã nổi tiếng về giỏi
buôn bán nhưng vẫn là làm ăn nhỏ, đôi gánh trên vai là phương tiện lưu thông
chính. Họ mang sản phẩm của biển như tôm, cá, mực và các chế phẩm mắm, ruốc đi
bán rồi mua khoai sắn, gạo, dầu đèn,... từ các nơi khác về để trao đổi, dù vốn
liếng ít cũng là buôn bán hai chiều, đở công sức.
Đáng kể trong đội
ngũ thương nhân là những người buôn xa – buôn chuyến, có thương thuyền, có vốn
lớn. Từ buổi đầu lập làng, đã có không ít người đóng ghe, thuyền để đi buôn, ra
bắc vào nam. Nhờ vị trí của làng ba bề giáp sông, biển lại kề
bên đường Thiên lý bắc – nam nên giao thông thủy, bộ đều rất thuận lợi. Nhờ thế,
nhân dân Lý Hòa buôn bán bằng xả phương tiện đường bộ và thủy nhưng đường thủy
phát triển hơn. Đội ngũ thương nhân buôn chuyến đều sắm ghe, thuyền chuyên chở
hàng hóa trên sông, biển. Thuyền ghe của thương nhân cũng có nhiều loại lớn nhỏ
với trọng tải chở hàng rất khác nhau. Ghe nhỏ, dài, thon, không có buồm thường
là của các thương gia có vốn vừa và ít, phạm vi buôn bán gần
như Đồng Hới, Kỳ Anh, Nhượng Bạn (Hà Tĩnh).
Ø Phương tiện buôn bán
Ở Lý Hòa, thuyền là
phương tiện buôn bán chủ yếu và cũng có nhiều loại lớn nhỏ khác nhau. Các thuyền
lớn gọi là ghe bầu có trọng tải từ 30 đến 100 tấn. Loại thuyền nhỏ và vừa thường
dành cho thợ chài đánh bắt cá gần bờ. Thuyền lớn cũng do thợ trong làng đóng
theo đặt hàng của các thương gia dùng để chuyên chở hàng trên biển. Vào thời điểm
phát triển của nghề buôn, ở làng có tới hàng chục chiếc thuyền lớn và hàng trăm
thuyền buôn nhỏ. Thương nhân nổi tiếng ở làng xưa có ông Chánh Thi, các họ buôn
bán giỏi như họ Hoàng, Phạm. Dân làng vẫn lưu truyền: “giàu họ Hoàng, sang họ
Phạm”.
Ø Thị trường buôn bán
Thị trường mua, bán
của thương nhân Lý Hòa rất xa và rộng, thường thì từ Quảng Bình, Đà Nẵng đến tận
Sài Gòn. Dân làng cho biết, trước đây những chủ thuyền không có hoặc ít vốn, họ
mang ghe đi xúc đá san hô ở Cà Ná chở vào bán cho những lò nung vôi ở Biên Hòa,
Thủ Dầu Một, lấy tiền đó mua lại vôi chở ra bán cho các đồn điền trồng mía ở Dầu
Tiếng, Trảng Bàng, Tây Ninh,... Với những chủ thuyền có nhiều vốn, họ mua hàng
hóa từ nơi này chuyển sang nơi khác bán như mua xác mắm ở Mũi Né – Phan Thiết,
mua vôi ở Cà Ná đưa lên các đồn điền bán hoặc đổi Lúa, mua vải, gạo ở Sài Gòn
đưa về... Vào khoảng mùng 5 tháng 5 âm lịch, thời gian đó gió đông nam hoạt động
mạnh họ tranh thủ mua sắm hàng hóa chuẩn bị xuôi ra bắc. Hàng hóa chủ yếu trên tuyến đường này thường là gạo
mua ở Sài Gòn, vỏ đà mua ở Tân An, Ô Cấp, sắt, đường, dừa ở Quảng Ngãi. Khi
thuyền chở về làng, tại đây những hàng hóa tiêu dùng được vợ con chủ thuyền hoặc
đấu nậu (bao mua) đưa ra bán ở chợ Lý Hòa và các chợ xung quanh. Còn vỏ đà, vỏ
tràm đưa ra bán ở chợ Nam Định, Hải Phòng, ở đây họ mua lại chiếu, vải, chén
bát mang về. Cuối tháng 6, dù đi đâu ghe thuyền cũng phải tụ họp ở Cửa Lý Hòa để
tu sửa ghe, tránh mùa mưa bão, vì thế nhân dân có câu:
“Mãn mùa cá nục xa chà
Chéo dọc xa đậu nấu, anh em
mình xa nhau”
Sau đó là lễ hội
phàm (hội buồm) được tổ chức để kết thúc mùa làm ăn.
Có thể nói việc buôn
bán ở Lý Hòa là một ngành nghề phong phú, sôi động và có hiệu quả. Thành ngữ “phi
thương bất phú” được chứng minh quá rõ ở làng Lý Hòa từ xưa cho đến nay, do vậy
nhiều nơi trong huyện tỉnh nhà cũng như trong Nam ngoài Bắc đều có nhận xét: Lý
Hòa là một trong những làng buôn bán giỏi ở Quảng Bình.
Nhờ hoạt động thương
nghiệp diễn ra sôi động ở chợ đã tạo điều kiện cho người dân trong làng không
ngừng mở rộng sản xuất nhằm tạo ra nhiều măt hàng để phục vụ cho việc buôn bán
trao đổi với các làng lân cận. Trong giai đoạn chiến tranh, mặc dù bị đánh chiếm
ác liệt nhưng ở Lý Hòa nghề buôn vẫn rất phát triển. Lúc này họ vừa buôn bán, vừa
phục vụ cho chiến tranh, các ghe thuyền đã bắt đầu đi xa hơn, thông qua việc
buôn bán ở chợ vận động nhau đóng góp ủng hộ kháng chiến, tiêu dùng đồng bạc
tài chánh vốn chỉ lưu hành ở vùng kháng chiến, đã dần dần được bộ phận trong
nhân dân vùng sau lưng địch ở Lý Hòa và các thôn lân cận chấp nhận trong việc
buôn bán trao đổi.
Từ năm 1986 trở đi,
Nhà nước xóa bỏ việc ngăn sông cấm chợ, các thành phần kinh tế được đi lên
trong nên kinh tế chung của đất nước. Đặc biệt từ năm 1990, đường lối đổi mới của
Đảng và nhà nước khởi xướng mở ra cho đất nước một thời kỳ mới, phát huy hết sức
mạnh của các thành phần kinh tế để xây dựng đất nước. Với sự năng động, nhạy
bén sẵn có, bản chất của làng thương thuyền, các thanh niên đã mạnh dạn đóng
tàu gỗ, lắp máy vượt biển khơi sang cảng Kỳ Sá, Phong Thành – (Quảng Đông –
Trung Quốc) mua các loại hàng như đồ điện, vải vóc, gạch mem, xe đạp, đồ sành sứ
đem về bán tại Lý Hòa. Tranh thủ thu lợi nhuận cho các nhân chủ tàu và các bạn
hàng. Thực hiện được việc này, giải quyết được cho hai manh mối thoát ra khỏi
chế độ bao cấp đầy khó khăn, đó là:
-
Đưa được các mặt hàng tiêu
dùng với giá rẻ phục vụ trực tiếp cho đời sống nhân dân.
-
Giải quyết được việc làm
cho hàng trăm thủy thủ và lao động bốc vác nữ trong xã và các xã lân cận.
-
Có hàng hóa tạo ra một đội
ngũ dịch vụ buôn bán xa gần trong tỉnh và cac tỉnh bắc nam.
Đời sống nhân dân được
nâng lên, nhà cao cửa rộng của xã Hải Trạch cũng được mọc lên ở thời điểm này. Sự
giàu có lại được trở lại và hơn cả ngày xưa. Hiện nay nên kinh tế thương nghiệp
ở Lý Hòa phát triển rất mạnh mẽ. Trên địa bàn xã có 15 doanh nghiệp tư nhân, 1
HTX vận tải đường bộ, 1 doanh nghiệp dịch vụ vận tải biển, có gần 600 hộ kinh
doanh (trong đó có 228 hộ do chi cục thuế quản lý, 292 hộ thuộc quản lý của
xã), cơ bản các doanh nghiệp và hộ kinh doanh chấp hành đầy đủ nghĩa vụ thuế của
nhà nước, lệ phí của địa phương mặc dù trong điều kiện kinh doanh có nhiều biến
động.
2.3.
Kinh tế thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp nước
ta vốn có lịch sử phát triển lâu đời, bắt nguồn từ làng xã và gắn liền với làng
xã. Một đặc điểm bao trùm trong lịch sử phát triển thủ công nghiệp là Việt Nam
là sự kết hợp chặt chẻ với nông nghiệp dưới nhiều mức độ và sắc thái khác nhau.
Thủ công nghiệp nước ta xuất hiện từ rất sớm, phát triển tạo nên kết cấu kinh tế
đa dạng trong mỗi làng quê, nó ra đời với tư cách là nghề tay trái của một số
người nông dân. Hơn nữa, nông thôn nước ta vốn giàu có về nguyên liệu cho thủ
công nên người ta có thể khai thác và tận dụng nó trong việc làm ra các sản phẩm.
So với các làng khác
thì nền kinh tế thủ công nghiệp ở Lý Hòa phát triển bằng các ngành nghề khác
nhưng lại có một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành kinh tế khác
phát triển.
Đóng thuyền ở Lý Hòa
cũng là một nghề rất quan trọng. Lực lượng đóng thuyền không nhiều, chỉ tập
trung vào một số gia đình cha truyền con nối, tuy nhiên đây là một bộ phận quan
trọng trong cư dân bởi nó đáp ứng được việc sản xuất các loại thuyền – công cụ
chủ yếu để thực hiện đánh bắt hải sản.
Với Lý Hòa, nghề
đóng thuyền có mặt tương đối sớm, có thể khẳng định từ khi làng ra đời đã có mặt
con thuyền dưới dạng đơn giản buộc bằng mây, đóng thêm gỗ, trọng tải rất thấp.
Ông tổ của nghề này là người thợ từ làng Hoàng Lao thuộc huyện Nghi Thức – Nghệ
An đi cư vào lập nghiệp ở đất Lý Hòa. Từ đó nghề đóng thuyền trở thành một bộ
phận quan trọng trong nền kinh tế Lý Hòa. Trải qua quá trình phát triển, từ những
kinh nghiệm sản xuất và đòi hỏi của thực tiễn những chiếc thuyền thô sơ không
còn đủ sức chống chọi với bão tố được nữa buộc nghề đóng thuyền ở Lý Hòa phải
có một sự chuyển biến về chất.
Mùa đóng thuyền ở Lý
Hòa bắt đầu từ tháng 8 kéo dài đến tháng 10, tháng 11, lúc đầu chỉ là những con
thuyền đơn giản bằng tre rồi dần dần phát triển lên thành những con thuyền gỗ,
to, chắc, đẹp. Để đóng được một chiếc thuyền đi biển, quan trọng nhất là phần
chuẩn bị nguyên liệu, có đầy đủ nguyên liệu rồi thì phải mất khoảng 12 đến 15
ngày cho việc hoàn tất một chiếc thuyền. Gỗ, ván dùng cho việc đóng thuyền phải
là gỗ tốt như lim, huỳnh, táu, hiện nay thường sử dụng thêm gỗ mít ròng hoặc gỗ
mu, ván bằng gỗ chò, kiền kiền,... có thể chịu được nắng mưa, chịu được sự ăn
mòn của nước biển.
Thông thường, người
chủ thuyền khi đến đặt đóng thuyền thường phải bàn giao toàn bộ số gỗ, ván cùng
các nguyên liệu cần thiết khác cho người thợ, sau đó giao toàn quyền cho thợ cả
xử lý. Khi dựng thuyền, đầu tiên người thợ phải dựng lô thuyền. Lô thuyền là
thanh gỗ dài uốn cong từ đầu và đuôi thuyền xuống dưới đáy. Có lô rồi người ta
ép hai thanh gỗ dài gọi là cạp be, dày chừng 3cm, rộng khoảng 40 cm vào hai đầu
lô tạo thành mạn thuyền, từ đó khung xương bên ngoài của con thuyền đã được tạo
thành. Nói có vẻ đơn giản, nhưng để có thể ép thanh gỗ cứng, thẳng theo hình
dáng của chiếc thuyền đòi hỏi người thợ phải nắm rõ cấu tạo, tuổi gỗ và có tay
nghề cao.
Có lô thuyền và cạp
be rồi, người thợ sẽ tiến hành đan nan để ép vào mạn thuyền. Nan thuyền phải
làm từ tre già, có chất lượng tốt. Nan đan thành tấm dày khoảng 0,5 cm,sau đó
ép vào mạn thuyền, quy trình này được gọi là “ập khẩu”. Ập khẩu hoàn tất, người
ta sẽ chùi lên nan một lớp phân bò, chờ khi phân bò khô sẽ đổ nhựa đường hoặc dầu
phủ lên trên, có như vậy, nan mới đủ độ bền chống chọi với sự ăn mòn của nước
biển. Nhờ vậy tuổi thọ của nan khá cao, cứ khoảng 7, 8 năm chủ thuyền mới thay
nan một lần... Khi con thuyền hoàn tất, người thợ giao cho chủ thuyền và nhận
tiền công, đồng thời được mời tham gia một nghi thức quan trọng là lễ hạ thủy
con thuyền. Lễ hạ thủy được tổ chức vào ngày lành tháng tốt, nhất thiết không
được thiếu phần tế lễ. Chủ thuyền dựng một mâm lễ ở giữa biển, ngay trước mũi
thuyền đang chuẩn bị được hạ thủy, thắp hương cầu khấn mong Bà Thủy phù hộ làm
ăn được no ấm, sau đó huy động thanh niên trai tráng đẩy thuyền xuống bãi biển,
thuyền trượt xuống càng êm, chủ thuyền càng vui mừng bởi họ tin rằng như thế
thì đi biển mới thuận buồm xuôi gió, tôm cá đầy khoang.
Đây cũng là một nghề
đầy kinh nghiệm về việc dóng sao để thuyền vào lộng ra khơi, vào Nam ra Bắc tốc
độ được cao, nahnh trong gió lúc bình thường cũng như trong giông tố bão bùng. Hơn
nữa nghề này cũng cần phải có sự sáng tạo để làm sao cho hình dáng chiếc thuyền
được cân đối, khỏe – đặc biệt hình dáng thuyền Lý Hòa có nét riêng, khác với
thuyền lớn nhiều nơi trong Nam ngoài Bắc.
Nhìn chung nghề đóng
thuyền của cư dân Lý Hòa ra đời muộn hơn so với các ngành thủ công khác như chế
biến hải sản, song nó ngày càng tỏ ra phát triển theo chiều hướng đi lên về kỹ
thuật cũng như công cụ sản xuất, từ chiếc thuyền tre buộc mây đã tiến đến làm bằng
gỗ đóng đinh hoặc chốt, trọng tải thuyền vì thế cũng tăng lên.
Với kỹ thuật mang nặng
tính chất thủ công và tự phát vì thế quy mô đóng thuyền của làng Lý Hòa không lớn
lắm, thành phẩm sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nội tại. Cho đến nay, Lý Hòa có
trên 100 thuyền đánh bắt gần bờ. Chi phí đóng mỗi chiếc thuyền khoảng từ 20 – 25
triệu đồng, trong đó khoảng 3,5 triệu đồng tiền công. Những năm gần đây vật giá
leo thang, giá xăng dầu càng cao khiến ngư dân thêm khốn dón. Hơn nữa, cửa biển
Lý Hòa đã bị thu hẹp lại nên bây giờ chỉ đóng những thuyền có trọng tải nhỏ để
khai thác gần bờ, thêm vào đó là sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã cho ra
đời những con thuyền máy với công suất vượt trội đã làm cho nghề đóng thuyền
truyền thống của Lý Hòa gặp không ít khó khăn. Trải qua hàng trăm năm tồn tại,
nghề đóng thuyền hiện nay không còn hưng thịnh như ngày trước, người thợ đóng
thuyền cũng ít công việc hơn, thu nhập từ công việc không đủ trang trải cuộc sống.
Từ vị thế là một nghề chính, nghề đóng thuyền dần trở thành nghề tay trái bên cạnh
công việc đi biển của các thợ đóng thuyền chủ lực.
Ngoài đóng thuyền, ở
Lý Hòa còn có một số nghề thủ công khác như đan lưới, làm lưỡi câu, làm chà,
nghề dệt, khai thác vật liệu xây dựng, mộc, nề dân dụng, sơ chế hải sản,... Mặc
dù không mang lại giá trị kinh tế cao nhưng lại phục vụ đắc lực cho nghề nghiệp
chính ở Lý Hòa là đánh cá biển.
2.4.
Thực trạng kinh tế Lý Hòa hiện nay
Nhìn chung, dưới tác
động sâu sắc của điều kiện tự nhiên và con người, nền kinh tế
làng Lý Hòa tồn tại khá vững chắc và đóng vai trò quyết định với đời sống và
toàn bộ các thiết chế xã hội của ngư dân Lý Hòa. Là những cư dân gắn liền với
biển, kề sông, cư dân lại là những người vốn có nguồn gốc từ
nghề biển nên bộ phận kinh tế chủ yếu cua ngư dân Lý Hòa là nghề đánh bắt cá biển
và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tùy theo mùa đánh bắt, kỹ thuật ngành nghề mà
bản thân nó bao gồm nhiều nghề khác nhau: nghề mành chốt, lưới rê, xăm tủ, bủa
câu,...Tất cả đều có tác dụng làm phong phú thêm bộ mặt kinh tế biển và hỗ trợ
một cách đắc lực cho người dân. Hiện nay, dù gặp khó khăn vì thời tiết không thuận
lợi, xăng dầu lên giá nhưng trong kết cấu kinh tế ở Lý Hòa kinh tế biển vẫn
đóng vai trò quan trọng. Hơn 50% số dân ở Lý Hòa làm nghề đánh cá biển, năng suất
chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%). Ngành kinh tế này đã đạt được một số kết quả sau:
Năm
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
Sản lượng (tấn)
|
1017
|
1222
|
1134
|
1072
|
Nguồn: bảng kết quả
thực hiện phát triển kinh tế biển của xã Hải Trạch giai đoạn 2008 – 2011
Như vậy, tổng sản lượng
khai thác trong giai đoạn 2008 – 2011 đạt 4293 tấn, sản lượng này tăng giảm bất
thường qua từng năm. So với mục tiêu của xã đề ra 1300 tấn thì vẫn chưa đạt được,
nhưng nhìn chung kinh tế biển vẫn đem lại giá trị kinh tế cho xã và nguồn thu
nhập ổn định cho cac ngư dân, bình quân 3 triệu đến 3,5 triệu/lao động/tháng.
Tổng giá trị mà hoạt
động kinh tế này đạt được giai đoạn 2008 – 2011 trên 100 tỷ đồng. Giá trị sản
lượng hàng năm không ngừng tăng lên, năm 2008 đạt 23,695 tỷ đồng, năm 2009 đạt
24,500 tỷ đồng, năm 2010 con số này tăng lên 38,172 tỷ (đạt mức cao nhất trong
các năm), năm 2011 đạt 27,560 tỷ đồng. Năm 2011 giá trị sản lượng kinh tế biển
đạt 87%.
Năm
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
Tỷ đồng
|
23,695
|
31,566
|
38,172
|
27,560
|
%
|
19,58
|
26,09
|
31,54
|
22,78
|
Nguồn: Bảng thống kê
tình hình kinh tế xã Hải Trạch giai đoạn 2008 – 2011
Mặc dù vậy, kinh tế
biển hiện nay vẫn còn gặp những khó khăn nhất định và chưa được chú trọng bởi
những lý do sau:
-
Mùa hải sản bấp bênh, khi
được khi không bởi nguồn thủy sản ngày càng cạn kiệt.
-
Thị trường xuất khẩu cũng
thất thường bởi xuất khẩu sang Trung Quốc là loại tươi sống theo yêu cầu về thực
phẩm trực tiếp nên thị trường càng bấp bênh, có lúc rớt giá thảm hại.
-
Về mực, các xí nghiệp đông
lạnh ở Quảng Bình không đủ khả năng chế biến nên đưa đi Đà Nẵng thì các xí nghiệp
thua lỗ, họ ít nhập cho mình do khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
-
Dầu diezen tăng giá, các loại
ngư lưới cụ, trang thiết bị cho tàu thuyền tăng giá.
Từ thực tế trên mà
nghề đánh bắt, chế biến hải sản hiện nay gặp nhiều khó khăn. Một số chủ tàu
không trụ nổi rồi bán tàu, kéo theo lao động dư thừa, thanh niên thất nghiệp phải
bỏ đi lao động ở các tỉnh vùng biển miền nam. Khuynh hướng vay vốn đi lao động
nước ngoài gia tăng. Song nước ngoài do khung hoảng kinh tế vì vậy các nhà máy,
xí nghiệp cũng không có việc làm, vì thế mà lao động dư thừa ở Hải Trạch cũng
là một điều trăn trở hiện nay. An sinh xã hội có khi bất ổn.
Nghề đánh bắt hải sản
hiện nay chỉ là cầm chừng, duy trì sự sống bất ổn định, kể cả nghề khơi, nghề lộng.
Ông cha ta xưa có câu:
“Biển giả - Biển vời”
“Rừng vàng – Biển bạc”
Với những khó khăn
trên, trong phương hướng nhiệm vụ năm 2012, ban lãnh đạo xã đã đưa ra các mục
tiêu cụ thể để phát triển kinh tế biển như sau:
-
Thực hiện chương trình phát
triển thủy sản, vận động nhân dân tăng cường đầu tư mạnh cho đánh bắt xa bờ.
-
Tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức cá nhân hình thành các tổ chức tiêu thụ, chế biến sản phẩm của ngư
dân.
-
Thành lập các tổ chức liên
kết trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, duy trì đánh bắt gần bờ, đồng
thời vận động nhân dân đầu tư vốn vào nghề chế biến truyền thống của địa
phương.
-
Bên cạnh đó còn thực hiện tốt
chủ trương thuế môn bài nghề cá của nhà nước, chống thế độc canh, chú trọng
khai thác nghề xuất khẩu hải sản. Mục tiêu mà ban lãnh đạo xã đưa ra năm 2012 sản
lượng đat tới 1300 tấn, tổng doanh thu là 31 tỷ, bình quân lao động nghề cá 4
triệu đến 4.5 triệu đồng/người/tháng.
Nghề thủ công nghiệp
của xã Hải Trạch trước cánh mạng tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và sau năm 1975 là nghề thủ công đóng tàu thuyền cũng chỉ là nghề
phụ, chỉ giải quyết được việc làm cho một số ít lao động. Ngoài ra, sau khi
kháng chiến chống Pháp có thêm nghề dệt lưới của HTX Minh Khai, rồi phát triển
thêm dệt thảm muồng, thảm dừa xuất khẩu nhưng khi chiến tranh phá hoại xảy ra
thì giải thể. Hiện nay chỉ có một số nghề duy nhất cho Tân Lý là khai thác đá
xây dựng nhưng vẫn bấp bênh. Xã Hải Trạch đang quan tâm, tạo điều kiện cho các
ngành nghề phát triển như khai thác vật liệu xây dựng, các tổ hợp mộc dân dụng,
cơ sở may mặc, tiêu thụ chế biến hải sản,... Vừa giải quyết được việc làm và có
thu nhập ổn định. Mặc dầu còn hạn chế về quy mô, số lượng nhưng làm ăn có hiệu
quả được thị trường chấp nhận, tiêu biểu là tổ hợp may của anh Phạm Sơn ở thôn
Tân Lý. Đáng tiếc là nghề đóng thuyền – một trong những nghề nổi tiếng đem lại
thu nhập cao xưa kia hiện nay không còn phát triển mà bị mai một dần. Những người
thợ có tay nghề chủ yếu đi làm ở các nơi khác như Cảnh Dương, Nghệ An, Vũng
Tàu,... còn có một số chỉ đóng và bán những loại thuyền nhỏ dùng để đánh bắt gần
bờ. Tuy vậy giá trị mà nghề này mang lại cũng rất cao đem lại thu nhập ổn định
cho người dân.
Tổng giá trị sản xuất thủ
công nghiệp – xây dựng
Năm
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
Triệu đồng
|
758,500
|
830,000
|
1,002,500
|
1,007,500
|
%
|
21.07
|
23.06
|
27.85
|
27.99
|
Nguồn: bảng thống kê tình hình kinh tế xã Hải Trạch giai đoạn 2008 – 2011
Như
vậy giá trị sản xuất thủ công nghiệp tăng lên theo từng năm, thu nhập bình quân
của người dân khoảng từ 2 – 2.5 triệu đồng/lao động/tháng. Mục tiêu của xã
trong năm 2012 là duy trì các nghề sản xuất hiện có, đồng thời khuyến khích các
hộ đầu tư mạnh và khôi phục lại các nghề truyền thống như làm kem đá, nghề mộc
dân dụng, dịch vụ ăn uống,... nhất là các nghề có thu nhập cao. Nâng cao nhận
thức cho người dân ở vùng Tân Lý trong việc khai thác vật liệu xây dựng phải có
chiến lược lâu dài nếu không sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên sẵn có. Phấn đấu
tăng tổng giá trị sản xuất lên 1.6 tỷ đồng/năm, bình quân thu nhập từ 3 – 3.5
triệu đồng/lao động/tháng. Bên cạnh đó phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế nhà
nước.
Nghề
thứ ba của Lý Hòa xưa và Hải Trạch nay là nghề buôn bán dịch vụ thương mại. Đây
là nghề cốt lõi xuyên suốt trong quá trình hình thành làng Lý Hòa. Trở thành một
nghề truyền thống có ý nghĩa “phi thương bất phú”. Trước đây ông bà, cha mẹ đã
phát triển mạnh, bây giờ con cháu càng phát triển mạnh hơn. Đi buôn tuyến bắc
nam, buôn với nước ngoài, đây là sự giữ “lửa bếp” cho người dân Lý Hòa. Nếu như
trước đây kinh tế biển giữ vai trò chủ đạo thì sau giải phóng kinh tế thương
nghiệp lại giữ vai trò này. Hiện nay nghề này chiếm tới 45% trong cơ cấu kin tế
nghề nghiệp của xã. Năm 2011, chợ Lý Hòa được đầu tư xậy dựng với quy mô lớn để
đưa chợ và các hộ kinh doanh đi vào ổng định nhằm giải quyết thêm việc làm và
tăng nguồn thu ngân sách. Tiếp tục vận động nhân dân, các doanh nghiệp tư nhân
mở mang ngành nghề, dịch vụ, sản xuất trong và ngoài địa bàn để thu hút lao động
đồng thời tuyên truyền việc chấp hành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, chấp hành
nghiêm pháp luật trong sản xuất, buôn bán kinh doanh. Bên cạnh đó, lãnh đạo xã
đang khảo sát và quy hoạch những vùng đất dôi thừa ở bắc Đá Bụt lên Đá Giếng để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân và nhân dân sản xuất kinh doanh
nhưng phải bảo đảm luật đất đai và công bằng xã hội
Kinh
tế Lý Hòa ngày nay quả đã kế tục và phát huy tối đa những tiềm năng vốn có để
không ngừng đi lên. Cơ cấu trong nền kinh tế Lý Hòa đang có sự chuyển dịch rất
rõ ràng với nền kinh tế biển chiếm 35.5%; thương mại dịch vụ chiếm 44.5%, thủ
công nghiệp xây dựng chiếm 20%. Như vậy chúng ta có thể thấy kinh tế thương
nghiệp đang ngày càng phát triển và là nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo thay thế
cho hoạt động kinh tế biển.
Trong
những năm qua xã đã có nhiều thuận lợi để phát triển nền kinh tế như nền kinh tế
tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực,
cơ sở hạ tầng được đầu tư xậy dựng trong những năm qua đang phát huy tác dụng,
năng lực sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế đang dần tăng lên. Tuy nhiên
vẫn còn gặp nhiều khó khăn do thời tiết thất thường, sản phẩm sản xuất về thường
bị tư thương ép giá, thị trường không ổn định lại thiếu các biện pháp quyết liệt
trong công tác thu nên một số hộ kinh doanh chưa nghiêm túc chấp hành nộp thuế
cho nhà nước. Thủ công nghiệp còn phát triển cầm chừng, các mô hình sản xuất
tính bền vừng chưa cao. Phải làm thế nào để giữ được nghề và phát triển nó thiết
nghĩ đó là điều mà lãnh đạo của xã luôn trăn trở, suy nghĩ. Để cuộc sống của cư
dân được ổn định và năng suất của các nghề được cao cần có sự đầu tư về ngư cụ
đánh bắt, trang bị tàu thuyền hiện đại và có trọng tải cao hơn. Giao thông cũng
cần được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các vùng miền. Chợ
cũng cần mở rộng quy mô và tổ chức có hệ thống để phát triển hơn nữa kinh tế
thương nghiệp.
Với
những tiềm năng sẵn có, cộng với sự lao động cần cù sáng tạo của cư dân chắc chắn trong tương
lai nền kinh tế Lý Hòa sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ và đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
Kết
cấu kinh tế của Lý Hòa cũng rất đa dạng, đa nghề, nhưng một điều đặc biệt là đều
liên quan đến nghề biển. Nếu làng làm nông nghiệp lấy cây lúa chi phối đến toàn
bộ đời sống của cư dân trong làng thì làng Lý Hòa lại lấy con cá làm trục chính
cho sự phát triển kinh tế của mình. Có ngành nghề thuần phục và có thương trường
sôi động, phong phú là điều kiện cần thiết cho sự phát triển thịnh vượng, trong
đó điều kiện then chốt và xuyên suốt của cả hai quá trình hoạt động trên chính
là sự năng nổ của dân lao động (cả nam và nữ) – điều kiện đủ làm cho Lý Hòa trở
nên một làng giàu có loại nhất nhì Quảng Bình. Tuy không ở trong hàng “Bát danh
hương” nhưng Lý Hòa vẫn được xem là một làng văn vật. (Còn nữa)
Xem bài :
Tác giả Nguyễn Thị Kiều Trang. Biên soạn : Hồ Thị Vân ; chỉnh sửa : Nguyễn Thị Thắm
1 nhận xét:
Ông bà mình có câu "phi thương bất phú" lý hòa mình có bộ mặt như ngày hôm nay là do dân mình thông minh biết làm giàu dựa vào buôn bán là chính, còn đi biển đánh cá chỉ là dủ sống thôi không thể giàu có được như vậy đâu. tác giả hãy viết lại nhé!
Đăng nhận xét