Tại thôn Trung Hòa, làng Lý Hòa – xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình hiện còn có một ngôi Miếu thờ nữ Thần Thiên YA Na, người Việt gọi
là Bà chúa Ngọc. Đó là thông tin ít ỏi được lưu truyền qua các thế hệ này đến
các thế hệ khác của dân làng.
Hiện tư liệu lịch sử Miếu Bà chỉ còn nền móng cột
trụ Hoa biểu có chu vi 1m2 được xây bằng bằng đá, toàn bộ Miếu thờ, tượng Bà đã
bị bom Mỹ phá sập trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc.
Sau năm 1975, để có nơi thờ tự, nhân dân trong thôn đã vận động, quên góp tiền,
công sức xây lại, tuy vậy miếu Bà hiện tại
có quy mô rất nhỏ cả về kiến trúc, kỷ
thuật, mỹ thuật...Tuy nhiên gần đây với mong muốn của nhân dân làng Lý Hòa trong và ngoài nước nên
xây dựng lại miếu Bà xứng với tầm vóc vốn đã có trong lịch sử. Ban công tác Mặt
Trận thôn Trung Hòa đã và đang tập trung tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu về lịch
sử miếu Bà để làm cơ sở cho việc thiết kế, xây dựng và hiểu biết thêm lịch sử,
tự hào về một di sản văn hóa của quê hương.
Lý Hòa - Lễ hội bơi thuyền trên sông |
Bà Thiên Y A Na hay bà chúa Ngọc là tên gọi của người Việt đối
với nữ Thần Yang Poh Nagar (Poh Nagar) của
người Chăm. Trong lịch sử “ Yang Poh Inư
Nagar” được xem là mẫu, là mẹ của người Chăm; vì “Yang” nghĩa là thần; “ Poh” là tôn kính; “ Inư” là
Mẩu, là mẹ; “Nagar” là xứ sở, đất nước. Theo truyền thuyết của người Chăm, Yang
Poh Inư Nagar do bọt biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước
biển dâng cao đưa bà vào bến nước yatran ở cửa sông Kauthara ( nay là sông Cù,
tức là sông Cái – Nha Trang ). Đó là một ngày mà trời nổi giông bão, sấm chớp
sáng lòa; nước ở trên rừng đổ về chảy ào ạt thành những dòng sông lớn và núi
cũng cúi mình xuống để đón bà Yang Poh Inư Nagar giáng trần. Khi bà bước lên bờ,
rừng cây cong xuống tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến hát mừng và cỏ hoa nở
rộ rực rỡ, khoe sắc muôn màu, tỏa hương thơm theo mỗi bước chân bà. Yang Poh
Inư Nagar đi đến đâu dùng phép thuật hóa ra những xóm làng, cung điện nguy nga,
cây lúa, cây bắp và cả loại gỗ quý Kỳ
Nam ( Trầm Hương ) làm cho xứ sở trần gian thêm trù phú. Yang Poh Inư Nagar được
xem là nữ thần Mẹ xứ sở là biểu tượng che chở cho cuộc sống bình yên của muôn
loài.
Sau khi người Việt
đến định cư vùng đất Nam Hoành Sơn (đèo Ngang), nơi vốn đất của người Chăm sinh
sống; tôn trọng tâm linh và tín ngưỡng của người Chăm, người Việt đã lưu giữ
phong tục thờ cúng thiêng liêng đối với nữ thần Yang Poh Inư Nagar, tiếp tục
coi bà là Mẹ xứ sở của mình. Và để dễ đi vào cỏi tâm linh, người Việt đã Việt
hóa truyền thuyết nữ thần Yang Poh Inư Nagar thành nữ thần Thiên Y A Na. Truyền
thuyết về Thiên Y A Na ở mỗi địa phương người Việt có đôi nét khác nhau nhưng đều
có nội dung cốt lõi câu chuyện giống nhau.
Ngày xưa, tại núi
Đại An ( tức Đại Điền ngày nay) có hai vợ chồng Tiều phu già không con cái sinh
sống, vỡ đất làm rẩy trổng dưa nơi triền núi. Cứ mỗi mùa dưa, quả nào chín đều
bị mất trộm. Một hôm, ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết kẻ hái trộm dưa là cô
gái nhỏ nhắn, hiền lành, xinh đẹp nhưng lại mồ côi, ông đưa về nhà làm con
nuôi; hai ông bà lão không có con nên xem cô gái như con đẻ, vì thế ông, bà lão
biết được cô gái vốn là tiên nữ giáng trần. Một hôm mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu
điều, buồn bã, khiến tiên nữ nhớ cảnh tiên
trên trời. Để xoa đi nỗi nhớ thương, cô gái lấy đá xếp thành hòn giả sơn
( hòn non bộ) . Nhận thấy việc làm lạ lùng của đứa con nuôi, ông Tiểu rầy la
cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với con gái, nên người cha nuôi có nặng
lời quở mắng. Đang buồn vì nhớ cảnh bồng lai,
lại bị cha nuôi ngăn cấm không cho làm hòn giả sơn, cô gái càng thêm tủi
khổ. Nhân lúc đó thấy một khúc gỗ Kỳ Nam ( Trầm Hương) từ trên nguồn trôi đến,
tiên nữ liền hóa thân biến vào khúc Kỳ Nam và để mặc cho dòng nước đưa đẩy trôi
ra biển, sau một thời gian lênh đênh theo dòng
nước, theo gió, khúc Kỳ Nam trôi đến
đất Trung Hoa. Thấy khúc gỗ lạ dạt vào bờ, có mùi hương tỏa ra ngào ngạt,
dân trong vùng kéo nhau đến, xúm vào khiêng nhưng không sao nhấc lên được. Thái
tử Bắc Hải nghe tin đã đến xem và nhẹ nhàng vác khúc gỗ đen về cung đình. Một
đêm nọ, Thái tử bỗng thấy một bóng người từ khúc gỗ Kỳ Nam bước ra
ngoài. Sau mấy đêm theo giõi, Thái tử đã bắt được cô gái. Nghe cô gái xinh đẹp
kể về thân phận của mình và tự xưng tên là Thiên YANa. Nghe xong, ngày hôm sau
Thái tử tâu với vua cha xin cho mình được cưới cô gái làm vợ. Sống với Thái tử,
nàng sinh được một con trai đặt tên là Trí và một con gái đặt tên là Quý.
Lý Hòa - Nghề bóng mực nang |
Một hôm, nhớ quê
hương, xứ sở aTrầm Hương, nàng Thiên YANa bèn dắt hai con nhập vào khúc gỗ Kỳ
Nam vượt biển trở về cố quốc. Cảnh củ còn đây nhưng bố mẹ nuôi đã chết, đau buồn,
thương nhớ, bà cho xây đắp lại mồ mả, sửa sang lại nhà cửa thờ phụng bố mẹ
nuôi. Thấy dân chúng làng Đại An thật thà, chất phát nhưng cuộc sống nghèo khổ,
bà đã đem những gì học được ở quê chồng như phép tắc, lễ nghi, nghề nông chỉ dạy
cho dân làng cày đất trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt vãi...dân Đại An
ngày một no đủ, giàu có. Đến một ngày nọ,
một con chim Hồng Hạc từ trên trời cao bay xuống rước Bà cùng hai con về
cỏi tiên. Nhớ ơn đức Bà, người dân làng Đại An và trong vùng xây tháp, tạc tượng phụng thờ. Tại xứ Bắc Hải,
Thái tử sau khi mất vợ, ngày đêm buồn rầu,
thương nhớ không nguôi bèn kéo quân vượt biển đi về phương Nam tìm vợ. Đến
Đại An, không tin vợ và hai con đã theo chim Hạc về Trời; Thái tử đã cho quân
lính bắt bớ, tra khảo dân làng. Bị oan ức
và đau đớn, dân chúng đã thắp hương cầu khấn, xin bà về cứu hộ. Lời khẩn cầu đó
đã lên đến trời xanh, phút chốc một trận cuồng phong nỗi lên, cát, đá bay mù mịt
cuốn phăng bọn người từ phương Bắc và cả đoàn tàu thuyền nhấn chìm xuống sông
Cái. Theo lời người xưa kể lại thì những cụm đá trước cửa Tháp Bà( tức tháp Poh
Nagar ở Nha Trang) giữa sông Cái là những tảng đá đánh chìm đoàn thuyền Thái tử
xứ Bắc Hải.
Đình Lý Hòa |
Hai truyền thuyết của
hai dân tộc Chăm và Việt về Poh Nagar -
Thiên YANa tuy có phần khác nhau về dị bản nhưng đó là đặc trưng của
dòng văn học dân gian. Ở truyền thuyết của người Chăm, nữ Thần Poh Nagar phản
ánh mối quan hệ xã hội Mẫu hệ mà hạt nhân cơ bản vẫn là sự tôn thờ người đã có
công lao khai quốc, lập ấp, người bảo vệ, che chở cho muôn loài. Với người Việt,
nữ Thần Thiên YANa là hình tượng biểu hiện
tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước khát vọng sống trong hòa bình, tinh thần
chống ngoại xâm...Có lẽ vì thế, tín ngưỡng thờ Thần Poh Nagar của người Chăm đã
được người Việt tiếp nhận và Việt hóa để nó trở thành tài sản văn hóa tinh thần
của hai dân tộc Việt _ Chăm. Hình tượng nữ thần Thiên YANa trở thành một vị thần
“ Hộ quốc, tí dân” của người Việt.
Miếu thờ thần Thiên Y A Na tại thôn Trung Hòa |
Từ sự ngưỡng mộ
Mẫu của người Chăm, trong dân gian việt còn lưu truyền rằng, thời vua Minh Mạng,
trong một lần nhà vua lên điện thờ bà Poh Nagar trên núi Hương Uyển ( Hương Uyển
sơn) thuộc làng Phương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên vô tình đánh rơi
chén Ngọc, tưởng rằng không lấy lại được thì bổng nhiên có một con rùa to từ dưới
sông nỗi lên, miệng ngậm chén Ngọc trả lại nhà vua. Từ đó núi Hương Uyển được gọi
là núi Ngọc Trản và đền thờ được mang tên là Ngọc Trản Sơn Từ ( đền thờ ở núi
Ngọc Trản ) Nhân dân địa phương gọi là Điện Hòn Chén. Dân gian còn lưu truyền
điện Hòn Chén còn có tên là Hoàn Chén nghĩa là “ trả lại chén Ngọc”. Bà Poh
Nagar từng được nhà Nguyễn phong : “Diễn Ngọc phi tôn, Thượng đẳng Thần” nên
nhân dân còn gọi là bà chúa Ngọc.
Thời vua Tự Đức,
Đồng Khánh là con nuôi nhưng lại không có con kế vị bèn nhờ mẹ là Kiên Thái
Vương lên đền Ngọc Trản, cầu đảo Thánh mẫu Thiên YANa xem mình có được lên ngôi
vua không? Thánh Mẫu cho biết ông sẽ toại nguyện. Sau khi lên ngôi năm 1886,
vua Đồng Khánh liền cho xây lại Điện thờ khang trang và để tỏ lòng biết
ơn Thánh Mẫu, ông cho đổi tên thành Huệ Nam
Điện với ý nghĩa “ Ban ân huệ đến cho vua nước Nam ”.
Lý Hòa - Lễ rước thần Hoàng |
Tại làng Lý Hòa,
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Sự tích về miếu thờ nữ Thần Thiên YANa ( còn
gọi là bà chúa Ngọc ) kể rằng: vào thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái, năm
Canh tý 1729 một đoàn ghe Bầu gồm 09 chiếc
của làng Lý Hòa chở hàng từ Sài Gòn – Gia Định về Quảng Bình. Trên đường ra Bắc,
đoàn ghe Bầu đến ngang bờ biển tỉnh Khánh Hòa, bỗng nhiên trời lặng gió, cũng vừa
lúc trời xẩm tối. Thấy không thể tiếp tục cuộc hành trình, sau khi tham khảo ý
kiến các chủ ghe, các thuyền chụm lại thả
neo nấu cơm ăn và đợi có gió đi tiếp.
Theo thường lệ, toàn bộ thủy thủ đoàn đi nghỉ, mỗi ghe chỉ để lại hai người trực
gác xem trời mây, gió, nước và canh chừng bọn Tàu Ô ( cướp biển người Trung Quốc)
lên ghe cướp hàng. Lúc này vào trung tuần tháng Tư âm lịch, gió thanh, biển lặng,
trời đầy sao, đang lúc những người trực canh chụm đầu ngồi uống nước chè xanh,
bỗng từ trong đất liền có một cái Lốt ( tựa như Sao băng ) sáng rực bay thẳng
ra biển đậu xuống đầu mũi một chiếc ghe Bầu
trong đoàn. Hai người trực canh trên ghe nhìn thấy sự lạ, ai nấy đều hoảng sợ,
kêu không thành tiếng chỉ biết đứng nhìn nhau ...Sau khi hoàn hồn, hai người trực
canh nhìn về phía mũi ghe, thấy một người con gái mặc bộ áo quần trắng, một tay
xách chiếc giỏ mây, tay kia cầm chiếc nón lá đi từ đầu mũi ghe đến cột buồm
lòng ( cột buồm chính giữa ghe ). Cô gái vừa đi vừa gọi: Bầu ơi ( ghe Bầu) Bầu
về miền Trung cho ta về Quảng Bình với; nói xong cô gái quay trở lại ngồi xuống
đầu mũi ghe. Ngỡ mình nhìn nhầm, nge nhầm trong cơn hoảng sợ, hai ông trực canh
vội gọi mọi người dậy xem thực hư thế nào? Theo tay người trực, mọi người nhìn
thấy cô gái xin đi nhờ đang ngồi nhìn biển, trời, mây nước...Ông chủ ghe sau
giây phút bàng hoàng đã bình tỉnh trở lại, hai tay bưng gáo nước chè, ông từ từ
bước tới nơi cô gái đang ngồi và quỳ xuống mời
cô gái uống nước. Cầm gáo nước chè trên tay, cô gái nói: Ta là Thiên
YANa, chủ Bầu cho ta đi về miền Trung, Quảng Bình; cô gái cũng bảo trời đã nỗi
gió, gọi các bạn ghe kéo neo, thả buồm
đi cho kịp. Gió thổi ngày càng mạnh, buồm no gió, đoàn ghe bầu nhằm hướng Bắc
thẳng tiến. Suốt cả chặng đường dài từ Nha Trang về Quảng Bình, cô gái “ đi nhờ”
vẫn ngồi lặng lẽ trên sọ mũi chiếc ghe Bầu đi đầu...Sau hai ngày đêm vượt biển,
đoàn ghe Bầu về tới biển làng Lý Hòa, thủy thủ các ghe lăn buồm, thả neo, đốt
hương, vàng mã nổ pháo mừng chuyến đi xa về an toàn, thắng lợi. Lúc này cô
Thiên YANa đứng dậy cảm ơn Bầu đã cho đi nhờ về Quảng Bình; vừa dứt câu nói, từ
người cô gái bỗng có một tia sáng lóe lên vụt bay vào ngay bãi đất hoang sát bờ
biển thôn Trung Hòa. Ngay sáng ngày hôm sau khi được các chủ ghe bầu, thủy thủ đoàn và những người trong
thôn... trình lại sự việc: vị nữ thần
Thiên YANa xin đi nhờ về Quảng Bình và vệt
sáng từ biển bay vào bờ. Hội đồng hương
lý, ông Cai xạ và các chủ ghe, thủy thủ đoàn... tìm tới nơi tia sáng đáp xuống
đất. Mọi người vô cùng ngạc nhiên, quả thật giữa bãi đất hoang cây lau sậy và cỏ
dại mọc um tùm có một vạt cỏ đổ rạp, lá úa vàng. Thấy đây là là điềm lành, cơ
duyên, diểm phúc cho dân làng; Làng liền cho lập bàn thờ và giao cho dân thôn
Trung Hòa sớm ngày lo thắp hương cúng Thần. Để có nơi thờ thần vững chãi, tránh
mưa bão, lụt lội, các chủ ghe Bầu đã vận động các lái bạn, vạn chài và dân làng
đóng góp tiền, ngày công, vật liệu, xây Miếu thờ bà Thánh Mẩu Thiên YANa. Ngôi
miếu thờ được xây ngay vùng đất giữa thôn Trung Hòa; Miếu thờ rộng ba gian, cột
bằng gỗ lim,tường bao quanh bằng gạch Bát Tràng được các chủ ghe Bầu mua từ Nam
Định về; trước Miếu có cổng Tam quan, bốn trụ cột Hoa biểu, bức bình phong...
Một góc làng Lý Hòa |
Hàng năm vào những
ngày lễ Xuân thủ, lễ Đại trường câu, lễ cầu mùa...trước khi vào lễ, dân làng tổ
chức lễ rước Bà Thiên YANa ra đình làng nhập thần...sau lễ làng lại tổ chức rước
Bà về lại miếu thờ và tại vị chờ đến lễ năm sau. Đối với lễ Bà, cứ vào các ngày
21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch cùng với nhân dân nhiều tỉnh ven biển miền
Trung, nhân dân Lý Hòa tổ chức lễ hội dâng hương Thánh Mẩu Thiên YANa. Đây là lễ
hội tâm linh đặc biệt được tổ chức duy nhất đối với “ Mẹ xứ Sở” nữ thần phù hộ
cho người đi khai hoang, lập ấp...của làng Lý Hòa và cũng như trên đất Quảng
Bình.
Với những giá
trị về lịch sử và tâm linh vùng đất mở đầu của công cuộc mở cỏi về phương Nam của dân tộc
Việt. Chính vi thế, các vua nhà Nguyễn
đã ban phong sắc cho Miếu thờ Thiên YANa của
làng Lý Hòa. Theo tập thần tích – thần sắc, làng Lý Hòa, tổng Hà Bạc, huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình do ông Nguyển Châu, hiệu trưởng trường tiểu học Lý Hòa
biên soạn năm 1937 có ghi : Ngày 20 tháng hai năm Thành Thái thứ hai (
1890) “ Sắc Quảng Bình tỉnh, Bố Trạch
huyện, Lý hòa thôn, phụng sự Thiên YANa, diễn ngọc phi tôn thần, hộ quốc tì
dân, nậm trứ linh ứng, hướng lai vi mông, ban cấp sắc văn, tứ kim phi thừa cảnh mạng, diếu niệm thần hưu, tước phong vi
hoằng huệ, phổ tế linh cảm diệu thông, mặc tướng huy, Dực bảo trung hưng, Thượng
đẳng thần, đặc chuẩn y cưu phụng sự, thần kỳ tướng hữu, bảo ngã lê dân – Khâm
tai”. Ngày 25 thàng bảy, năm Khải Định thứ chín (1924) lại có sắc phong với nội
dung gần như sắc phong ở trên “...Nguyên tặng Hoằng Huệ, Phổ tế linh cảm diệu
thông, mặc tướng tranh huy, Dực bao trung hưng, Thượng đẳng thần”
Một góc làng Lý Hòa |
Có lẽ từ rất
lâu người dân sống trên vùng đất Thuận Hóa chỉ biết đến và biết nhiều về Công
chúa Liểu Hạnh và miếu thờ Bà tại Nam đèo Ngang thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình mà ít biết đến nữ thần Thiên YANa – Bà chúa Ngọc và miếu
thờ Bà tại thôn Trung Hòa, xã Hải Trạch ( làng Lý Hòa), huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng
Bình. Thiên YANa – bà chúa Ngọc – bà Mẹ xứ sở của hai dân tộc Chăm và Việt, nữ
Thần phù hộ cho con dân Đại Việt đi khai hoang, lập ấp mở cỏi về phương Nam còn
lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - một điểm
lịch sử văn hóa – lịch sử tâm linh cần giữ gìn và tìm đến.
2 nhận xét:
Hồi xưa nghèo nhưng "Lý Trưởng" vẫn huy động được sức dân xây dựng nên đình, chùa, miệu. đền thờ....Tại sao bây giờ đã gần 300 năm rồi "Dân giàu, nước mạnh" mà huy động sức dân kém thế ?
Oa cha ôi..đọc tới chổ ánh sáng mà cháu dợn tóc gà..thì chuyện là zi..
Mươi bựa..cháu k zớ lắm..chắc lúc đó cháu học lớp 5 hay lớp 6 chi đó..
Cháu vs mạ đi ra ngoài mệ ngoại chơi..lúc đi về mới bước cẳng ra khỏi đàng một đoạn..2 mạ con nói..mạ ngồi đây một méng hè..mỏi cẳng ậm..thì 2 mạ con mới đặt khu ngồi xuống một méng..lúc đó trời sáng trăng nừa tỳ.đang ngồi hay hay nói chuyện một méng..ak hãy thì tổ cha..ngồi ngó lên trời một méng..va cha mạ ơi..ở mô cục lã to mà mạ..bay trên cao đâm thẳng xuống zưới nghè zứa tè..
Cháu..đoạn đó thấy lạ lạ.mẹng ấp a ấp úng nói..va va va mạ.coi tè.
Cục lã hắn té xuống dưới nghè mạ tè..đoạn đó cuống cuống ỵ zứa.
Mạ cháu nói..im đi im đi..nói zỏ zỏ ợ..đầng có của hông nên...
Mạ mới nói xong..cháu nói thôi mạ ơi về cho r..sợ ậm..! Đi về dưới đàng cháu vẫn sợ long đong lãy đãy ý.
Đăng nhận xét